Kontakt / contact     Hauptseite / page
                  principale / pagina principal / home     zurück / retour
                  / indietro / atrás / back     đến nội dung
D    ENGL   THAI ไทย

Chiến tranh Việt Nam: sự thật

Các hiệu ứng xă hội học của cuộc chiến tranh của quân đội Mỹ "và các binh sĩ của" thế giới tự do "tại Việt Nam

được viết bởi Michael Palomino (2002/2005); và tin tức

Chia:

Facebook







từ: Clark, Gregory R.: Lời của chiến tranh Việt Nam. Jargon Slang, từ viết tắt, từ viết tắt, Danh mục, Biệt hiệu, bút danh, khẩu hiệu, Specs, uyển ngữ, đôi nói chuyện, Chants, Tên, Địa điểm của kỷ nguyên của Sự tham gia của Hoa Kỳ vào Việt Nam (gốc bằng tiếng Anh: Words of the Vietnam War. The Slang, Jargon, Abbreviations, Acronyms, Nomenclature, Nicknames, Pseudonyms, Slogans, Specs, Euphemisms, Double-talk, Chants, and Names and Places of the Era of United States Involvement in Vietnam). McFarland & Company, Inc., Publishers Jefferson, North Carolina London 1990

B́nh luận
Sự thay đổi và tội ác được kích hoạt bởi một cuộc chiến tranh dân số và cũng cho những người lính được tŕnh bày rơ ràng đây với chiến tranh Việt Nam. Tất cả những thay đổi và tội phạm cũng có thể được nh́n thấy trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào khác. V́ vậy nó sẽ là tốt để ngăn chặn bất kỳ cuộc chiến tranh và hành động với một vũ khí, và nó sẽ là tốt để ngoài ṿng pháp luật chiến tranh hoặc hành động với một vũ khí như là một hành động tâm thần nói chung. Lănh đạo chiến tranh bị bệnh người thao tác phải được đưa vào khoa tâm thần. Điều này cũng có tính "American" Chủ tịch ...



Nội dung

trở lên
1 "Thế giới lực lượng quân sự" 
2 Miền Bắc Việt Nam
3 Đời sống xă hội của dân số Việt Nam, của "USA" và của những người lính trong chiến tranh
4 Cụm từ "Mỹ"người lính
5 Việt dân số
6 Quân sự các thiết bị
7 Chiến lược quân sự trong chiến tranh Việt Nam
8 Chiến thuật của quân đội Bắc Việt Nam / Việt Cộng
Bất lực chiến thuật của "U.S.A." tại Việt Nam chống lại du kích miền Bắc Việt Nam
10  Lặp đi lặp lại hoạt động quân sự



11  Phạt tù và tra tấn trong thời gian chiến tranh Việt Nam
12  Phong trào phản chiến trong "U.S.A."
13  Dự thảo, phản đối vụ quân sự và phong trào ḥa b́nh trong "USA"
14  Dự thảo nghĩa vụ quân sự ở miền Bắc Việt Nam
15  Đào ngũ trong "Hoa Kỳ" quân đội
16  Tha tội
17  Thiết bị của "Mỹ" binh sĩ: sự ṭ ṃ
18  Y học, rừng nhiệt đới và các bệnh hoa liễu trong chiến tranh Việt Nam
19  Tâm lư bệnh tật và thiệt hại lâu dài
20  Ma túy và nghiện ma túy trong chiến tranh Việt Nam và "USA"


Xă hội học điều kiện


đến nội dung     nach oben

1 "Thế giới lực lượng quân sự"

Các đồng minh của "USA" chống lại các quốc gia Cộng sản đă có cái tên "Lực lượng quân sự thế giới miễn phí". Với lời nói dối này "USA" đă liên quan đến một nửa của thế giới trong một cuộc chiến v́ lợi ích của họ. Ngay cả "các nước không phát triển" đă được đưa ra quân trong khi những dân số có thể sử dụng tiền thực sự tốt hơn cho các dự án dân sự. Cam-pu-chia đă được phân bổ "Khmer Quốc gia Lực lượng vũ trang" (Clark, p.184) đă được đào tạo bởi "Hoa Kỳ" Lực Lượng Đặc Biệt (USSF). Quân đội Úc đă thành lập "Úc Quân đội Đào tạo Team, Việt Nam" (AATTV), đào tạo quân đội miền Nam Việt Nam. Úc nói chung được gọi là "Úc" (Clark, p.38). The Australian "dân sự" Civilian Nhóm không thường xuyên Quốc pḥng "(DSCĐ) có nhiệm vụ tuần tra và kỹ thuật ḥa giải. Úc đặc biệt Air Service (SAS) và AATTV hỗ trợ công việc của" Hoa Kỳ "Lực Lượng Đặc Biệt (USSF) (Clark, p.39). Năm 1965 Úc gửi "Hoàng gia Úc Trung đoàn" cho các dịch vụ trong quân đội miền Nam Việt Nam như là "1st Task Force Úc" (Clark, p.38). đơn vị cuối cùng của AATTV được rời khỏi Việt Nam trong tháng 12 năm 1972 ( Clark, p.39).

Năm 1964, New Zealand gửi một nhóm tư vấn nhỏ đến Việt Nam, và sau đó một đơn vị của "Royal Artillery New Zealand" theo, và sau đó là SAS (Special Air Service "), các kỹ sư và bộ binh. Một quân kết hợp của New Zealand và Úc được thành lập với "Úc-New Zealand Army Corps (ANZAC). Allin tất cả các chiến sĩ 469 Úc và New Zealand qua đời tại Việt Nam (Clark, p.39). Biệt hiệu cho New Zealand là "New Zealand". Vào năm 1972, tất cả binh lính chiến đấu của New Zealand đă tới New Zealand (Clark, p.346).

Việt Nam với khoảng cách ít hơn 1.300 km từ Việt Nam đă phục vụ như là một cơ sở chính cho "Hoa Kỳ" lực lượng không quân và thủy quân lục chiến trên đường đến Việt Nam. Họ cũng phục vụ như là một trạm dịch vụ sửa chữa cho các tàu của hạm đội 7. Chế độ của Việt Nam dưới Ferdinand Marcos cũng giao các đơn vị nhỏ của máy bay chiến đấu chiến tranh, các kỹ sư và quân đội y tế cho miền Nam Việt Nam như là một phần của Nhóm 1 hành động công dân Philippine. Sau khi đánh bại "Mỹ" ở Việt Nam "Hoa Kỳ" quân đội trên cơ sở của Việt Nam cảm thấy rất có nguy cơ tuyệt chủng (Clark, p.399).

Đài Loan đă cử các nhóm nhỏ cố vấn quân sự cho miền Nam Việt Nam, không quá 50 người. "USA" sợ Cộng sản Trung Quốc, do đó quân đội từ Đài Loan đă bị từ chối. "USA" đă sử dụng các cơ sở lực lượng không quân Đài Loan trong Ching Chuan Kang CCK cho lực lượng không quân của họ (Clark, p.342).

Thái Lan đă bắt đầu hỗ trợ "USA" vào năm 1964 đă được (phi công và máy bay chiến đấu không khí) ở miền Nam Việt Nam. Năm 1967, Thái Lan quân chiến đấu đầu tiên được gửi đến tỉnh Biên Ḥa được gọi là "Nữ hoàng của đội Cobras trung đoàn chiến đấu". Năm 1968 "Cobras" trở lại Thái Lan và được thay thế bởi Hoàng gia Thái Lan "chiến đấu lực lượng," Black Panter "Devision này Thái Lan đă hỗ trợ lực lượng không quân và các phi công trên tàu biển trên biển. Trong tháng 8 năm 1971 binh sĩ Thái Lan đă bắt đầu quay trở lại Hơn 350 binh sĩ Thái đă thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam Thái Lan cũng thuê căn cứ không quân "USA":.. Nam Phong, Korat, Takhili, Nakhon, Phanom Từ những căn cứ "Hoa Kỳ" máy bay chiến đấu không khí thực hiện các chuyến bay của họ cho các vụ đánh bom các chuyến bay cảnh sát trên toàn bộ khu vực Đông Nam Á qua Cam-pu-chia, Lào, Việt Nam (Clark, p.510)
.


đến nội dung     nach oben

2 Miền Bắc Việt Nam

Người đứng đầu nhà nước thành phố Hồ Chí Minh và chỉ huy của ông đă sẵn sàng chấp nhận một số lượng lớn của các nạn nhân Việt Nam thống nhất (Clark, p.569). Tướng Nguyễn Vơ Giáp là một Tướng theo Hồ Chí Minh kể từ đầu những năm 1940 cho tới năm 1974. Ông đă lănh đạo quân đội Việt Minh chống lại quân đội Pháp sau đó chống lại quân đội của miền Bắc Việt Nam hàng đầu Việt Cộng quân đội chống lại "người Mỹ" (Clark, p.348). Ông là một chuyên gia trong chiến tranh du kích và chấp nhận khối lượng của nạn nhân để đạt được mục tiêu của ḿnh. Biệt danh của Tướng Giáp Nui Lua ("băng bao phủ ngọn núi lửa"). Năm 1974, Giáp một người hưu trí cũng v́ lư do sức khỏe tiếp theo là Văn Tiến Dũng sau khi vào năm 1972, Bắc Việt Nam đă bị mất hơn 100.000 người đàn ông trong "tấn công Eastertide" (Clark, p.349).

Tướng Giáp từ Bắc của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam là hành động theo ngữ có câu: "Mỗi ngày trên thế giới hàng trăm ngàn người chết v́ cuộc sống con người có nghĩa là không có ǵ." Bằng cách này, chính sách của Bắc Việt Nam chấp nhận 100.000 s nạn nhân cho cuộc chiến này với mục tiêu của đất nước thống nhất (Clark, p.166). Tâm lư đă đưa ra chống lại quân đội Pháp sau năm 1945 đă được như nó có thể được thể hiện trong bài hát này chống Pháp: "Bạn có thể giết chết 10 người đàn ông của tôi cho tất cả mọi người tôi giết của bạn, nhưng ngay cả ở những tỷ lệ cược, bạn sẽ mất và tôi sẽ giành chiến thắng "(Clark, p.569). Những tuyên bố chiến thắng của Việt Nam "Giải Phóng" ("giải phóng và độc lập") (Clark, p.201). tuyên bố chiến thắng trước "USA" tại miền Nam Việt Nam có nghĩa là: "Đả đảo đế quốc Mỹ và con rối của họ Sài G̣n" (Clark, S.152).

Do đó phương Tây tuyên truyền luôn luôn có thể chỉ ra làm thế nào cao tỷ lệ nạn nhân của quân đội Cộng sản đă tŕnh bày các nhà lănh đạo của họ như những con độc ác, nhưng phương Tây tuyên truyền không bao giờ báo cáo ư nghĩa của những tổn thất này: sự khao khát cho một đất nước thống nhất.

["U.S.A." muốn có một Việt Nam chia như Đức được chia.



đến nội dung     nach oben

3 Đời sống xă hội của dân số Việt Nam, của "USA" của những người lính trong chiến tranh

"Hoa Kỳ"người lính
Trong cuộc biểu t́nh chống lại ḥa b́nh, dấu hiệu "Fuck Peace Sign" kéo dài ba ngón tay (ngón trỏ, ngón tay giữa và ngón đeo nhẫn) được sử dụng để chống lại các cuộc biểu t́nh ḥa b́nh (Clark, p.194).

Một đơn vị hoàn chỉnh cũng được gọi là "Fat Unit" của Mỹ "quân sự. Tại Việt Nam "Mỹ" các đơn vị chủ yếu không đầy đủ v́ đă có nhiều nạn nhân, bệnh, kỳ nghỉ quay. Một nhà nước hoàn chỉnh được gọi là trong ngôn ngữ của người lính cũng như là một "Sức mạnh Paddy" (rất mạnh mẽ rằng các cuộc tấn công cơn giận dữ có thể là có thể) (Clark, p.171).

Phi công Mỹ "quân đội tại Việt Nam đă biệt danh là một "flyboy", một "zoomie", một "cánh lau" hay một "jockey máy bay chiến đấu" (Clark, p.182). Bắc phi công Việt Nam được gọi là "Hoa Kỳ" lính "Yankee không khí cướp biển" hoặc "không khí cướp biển" (Clark, p.568). "Mỹ" phi công đă phục vụ tối thiểu là giờ bay mỗi tháng cho việc duy tŕ t́nh trạng phi công của họ tiếp tục nhận được tiền lương bổ sung với nó (Clark, p.181).

"Lifers" ("trong suốt cuộc đời") được gọi là các nhân vật có nghề nghiệp đang muốn làm cho sự nghiệp trong hệ thống quân đội (Clark, p.280) tương ứng muốn có một công việc an toàn trong một trại căn cứ (Clark, p.167) . Đây có thể là nhân vật cực đoan của sự nghiệp, được gọi là "Lifers Hardcase" tra tấn "Mỹ" quân đội không có ǵ như một tṛ đùa. Những người ở phía trên cùng của danh sách các ứng cử viên bị giết (Clark, p.280).

"Ăn Apple, Fuck the Corps" ("shit trên các ông chủ") một văn bản của một bài hát của Thủy quân lục chiến chống lại chỉ huy với các hành động tùy ư trong "Mỹ" Hải quân. Ví dụ, một ngọn núi đă bị chiếm đóng đă được để lại và cần được reoccupied (Clark, p.160).

"Fuck-Lizard" ("xấu thằn lằn") được gọi là tiếng ồn của một con thằn lằn có thể được nghe thấy trong đêm ấm áp khi "Hoa Kỳ" quân đội đă được di chuyển. Những âm thanh của thằn lằn giống như một staccato lính được gọi là tiếng ồn này "Fuck" ... "Fuck you" (Clark, p.194)

[đào tạo một "tinh thần" chống lại kẻ thù].


Các cuộc tấn công bên trong "Hoa Kỳ"quân đội

Fragging Frags cuộc tấn công chống lại các khía cạnh riêng - chủ yếu xảy ra trong pḥng ngủ thực hiện với lựu đạn, ví dụ như đối với cán bộ không đủ năng lực, độc ác hơn tham vọng hạ, chống lại phân biệt chủng tộc đối với người thuốc tiêu thụ trong quân đội. Thường cũng là một "cảnh báo cuối cùng" đă được tổ chức khi một quả lựu đạn khói đă được đưa ra khi một hàng rào an toàn của một quả lựu đạn đă được đặt trên một vị trí đáng ngờ (Clark, p.187-188).

Sau khi một cuộc tấn công toàn bộ đơn vị đă được phân lập một "hoạt động Freeze" bắt đầu, trên tất cả với Thủy quân lục chiến. yêu cầu và internments cho đến khi trường hợp rơ ràng, với sự đảm bảo rằng những người đưa ra lời khai sẽ được thuê lại bởi quân đội. Chiến lược này để giải quyết các cuộc xung đột đă thành công và số lượng các cuộc tấn công đă được giảm (Clark, p.369). Tuy nhiên, kể từ năm 1969 khi chiến tranh kết thúc đến gần hơn số lượng các cuộc tấn công của binh lính Mỹ chống lại các ông chủ của họ đă tăng trở lại (Clark, p.188).



Loại sống của "Mỹ" người lính

Đến năm 1959, nó là một thực tế b́nh thường để sling một người lính bộ binh biển sau khi một sự xúc phạm này được xử lư bằng công lư, hoặc đôi khi có ṭa án lệnh của slinging một người lính. Thủ tục này được gọi là một "Drumming Out". Từ năm 1959, thực tế điều này không được áp dụng nữa bởi Tướng David Shoup đă qua sự chỉ huy của Mỹ " Quân đoàn Thủy quân lục chiến nhưng ông đặt ra ngoài ṿng pháp luật thực hành này (Clark, p.155).

Khách sạn của các nhân viên CIA ở Sài G̣n Downtown được gọi là "Đức Hotel" ("Royal Hotel"). Đó là một số khối nhà từ Mỹ " Đại sứ quán (Clark, p.156).

Bất kỳ "Mỹ" người lính đă thực hiện bảo hiểm hơn 10.000 $, được gọi là "GI bảo hiểm" / "Bảo hiểm Soldier Mỹ" cho các trường hợp về cái chết của ông, và những $ 10.000 sẽ có được gia đ́nh ông (Clark, p.200).

Có một "GI Phrase Book" (cụm từ điển) cho "Mỹ" binh lính cho việc học các từ cần thiết bằng tiếng Việt trong các hành động của họ ở nông thôn (Clark, p.200).

"Dung Lai" có nghĩa là "Stop" tiếng Anh và là một trong những từ đầu tiên của Mỹ " các binh sĩ để t́m hiểu xử lư dân số Việt Nam dân sự (Clark, p.157).

Đối với người lính "American" có sự cưỡng bách phải cạo sạch, khô Cạo Râu ", và họ cũng đă phải cạo sạch khi họ đang chiến đấu trong rừng rậm. Họ cạo với một máy cạo râu khô, an toàn máy cạo râu hoặc với một con dao đơn giản mà gây ra những vết thương và những vết sẹo của khóa học (Clark, p.156).

Đối với những người Mỹ " những người lính đă không thường xuyên rửa có "thêm điều trị: các đồng nghiệp đang làm việc rửa với bàn chải đó được gọi là một" GI Shower "(" người lính của mưa "). Và có thể c̣n có h́nh phạt tập thể v́ không rửa sạch của người lính chỉ có một một nhóm hoàn toàn bị trừng phạt (Clark, p.200). Th́ người gây ra hành h́nh phạt tập thể bị trừng phạt bằng cả nhóm sau đó, ví dụ như với một "Đảng Blanket". Ông đă được cố định trên giường với chăn và sau đó bất cứ ai cũng có thể đánh bại anh ta bằng nắm đấm hoặc với gậy gỗ bọc vào khăn ướt (Clark, p.61).

Phân loại các binh sĩ thiệt mạng trong "Hoa Kỳ"quân đội
Chết v́ vết thương DOW, hoặc "bị giết trong hành động". Tất nhiên, hai loại này không chính xác, và do đó đếm những người bị giết không chính xác như vậy (Clark, p.156). Binh sĩ đă bỏ lỡ được đánh giá "Missing in Action" (MIA). Khi kết thúc chiến tranh Việt Nam hơn 2.300 "Mỹ" binh sĩ đă được đánh giá là người bỏ lỡ nó có thể được coi như là họ đang có trong lao động cưỡng bức ở một số nơi trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam từ chối bất kỳ điều tra cho đến ngày nay (1990). Lư do để từ chối bất kỳ điều tra để bỏ qua "Mỹ" lính là câu hỏi thừa nhận của Việt Nam "USA". Thêm vào điều này cũng Nga, Bắc Triều Tiên, và Trung Quốc đă được giữ kẻ bị giam cầm của phương Tây trong lao động cưỡng bức trong một thời gian dài. Một số người Pháp từ năm 1954 ví dụ đă được lưu giữ cho đến năm 1979 (Clark, p.328).


Tên và biệt hiệu "Side phương Tây"
"Yankee Station" là tên mă của hạm đội 7 đóng tại Golf Bắc Bộ từ nơi không kích được thực hiện (Clark, p.568).

GI: tên này xuất phát từ "thế giới thứ hai War" "Vấn đề Chính phủ" có nghĩa là, "General Issue" (vấn đề của chính phủ, vấn đề của Tổng) (Clark, p.200).

Bo Doi: là một tên cho "người lính" bằng ngôn ngữ Việt Nam, trên tất cả cho quân đội miền Bắc Việt Nam (Clark, p.63).

Digger: biệt danh của Úc cho các binh sĩ bộ binh Úc (Clark, p.144).

Trooper: biệt danh là "Mỹ" lính kỵ binh (Clark, p.522).

Troop: là tên Tiếng Anh cho người lính (Clark, trang 522.).


Việc xác định kẻ thù "U.S.A."

Kể từ năm 1965, xác định kẻ thù của "USA" đă được đưa vào một mô h́nh hệ thống. Tất cả những người bị nghi ngờ đầu tiên đă được chỉ đơn giản là "Việt Cộng nghi ngờ" (VCS), và khi có một xác nhận sự nghi ngờ này, nó được gọi là "Việt Cộng Xác nhận" (VCC). Đă được tự động thừa nhận rằng Việt Nam chạy trốn khỏi một cơ quan hoặc một hành vi bướng bỉnh là một thành viên của Việt Cộng (Clark, p.544).

Cái tên "Nợ nghi ngờ-Trạng thái" của "Người Việt Nam thiếu quyết đoán" một "Mỹ" nói về người Việt Nam không được không bạn cũng không phải kẻ thù. Câu nói này được áp dụng trên tất cả những người Việt Nam đă được nh́n thấy từ một khoảng cách không có vũ khí thể nh́n thấy không tín hiệu tích cực của t́nh trạng bất kỳ. t́nh trạng này là "nghi ngờ" đă được rất không rơ ràng khi họ không vội vă trong quá tŕnh đi bộ của họ đến gần hơn với Mỹ "lực lượng. Khi một người Việt Nam ở Việt Nam đang chạy trốn đă từ lính, ông được coi là một thành viên Việt Cộng hoặc ít nhất là một nghi ngờ Việt Cộng (Clark, p.151).



đến nội dung     nach oben

4 Cụm từ "Mỹ"người lính

"Thả Cocks của bạn và lấy vớ của bạn" là một văn bản bài hát của một "Instructor Drill" trong quá tŕnh đào tạo cơ bản của những người lính đánh thức chúng fro nơi ngủ hoặc tấm ván giường vào buổi sáng (Clark, p.155).

"Hăy cho một fuck" ("shit trên đó") là trên tất cả các sử dụng như là một cụm từ âm tương ứng không quan trọng nhiều hơn cho "Mỹ" binh sĩ: "Ai cho một fuck ...?" ("Điều ǵ về shit này ...?" (Clark, p.201)

"Cho-a-Shit-thùy" là một biểu hiện tiếng lóng cho phần phía trước của năo mà cuối cùng có thể bị hư hại trong cuộc chiến tiếp theo. Khi phần phía trước của năo trong thực tế đă bị hư hỏng sau đó bệnh nhân đang ở trong một trạng thái willingless để người ta có thể nói về ông: "Ông không đưa ra một shit về bất cứ điều ǵ" (Clark, p.201).

FFF: "T́m - Sửa chữa - Finish" là một trật tự viết tắt của "Mỹ" những người lính bộ binh xử lư các kẻ thù: "T́m, sửa chữa và fuck'em hơn nếu bạn có thể" ("đụ chúng qua = giết chúng và mang lại cho họ để vượt ra ngoài") (Clark, p.175).

Có một số biệt danh cho quân Bắc Việt Nam Bắc Việt / Việt Cộng: Victor Charlie, Ghost, gooks, Gooners, Luke Gook, hostiles Slopes, kẻ ít, Dicks, Gomers, November Victor Alpha (Clark, p.164).

"Nhận được một số" là một sự can đảm làm nói trong sự khởi đầu của một cuộc chiến kích động nhiều năng lượng hơn để trả thù và cho một hành động giết người (Clark, p.199).

Bởi tất cả những điều này, một "người Mỹ" Việt tiếng lóng được đến giữa Mỹ " binh sĩ và dân số Việt Nam dân sự. Ví dụ có động từ "lưu niệm" có nghĩa là ở Việt Nam ", bạn có thể cho tôi". Trẻ em Việt Nam đă được áp dụng từ này khi họ nh́n thấy "Mỹ" binh sĩ, và "Hoa Kỳ" binh sĩ áp dụng từ này khi họ đă có cuộc gặp gỡ với những người Việt Nam (Clark, p.480).

Thư từ những thân từ "U.S.A." "Mỹ" binh sĩ được đánh giá là "Báo cáo Đường" ("các báo cáo từ mật ong") hoặc "Tin tức thế giới" (Clark, p.136).

"Dear John Letter" đă được gọi là một lá thư từ người phụ nữ của "Mỹ" binh sĩ rằng cô muốn ly dị tương ứng từ bạn gái cầu xin cho tách. "Lư Do" cho sự khác biệt thường được phát minh với tưởng tượng nhiều. Vâng, thông thường chỉ là một người đàn ông đă "thực hiện trên phụ nữ bị mất, và người đàn ông này mới được gọi là chỉ đơn giản như là một" Jody ". Như vậy chiến tranh Việt Nam cũng đă phá hủy cuộc sống của nhiều người Mỹ " những người lính có được trong một khoảng cách xa bị cô lập và cũng đă có vấn đề địa chỉ trong nhiều trường hợp (Clark, p.136).

"Hoa Kỳ" binh sĩ đă phát minh ra các bài hát về con số "Jody", cái gọi là "Jody cuộc gọi" cướp bạn gái "USA" "Mỹ" binh sĩ tại Việt Nam, và điều này "Jody" biết để ẩn ḿnh khỏi bị buộc vào các lực lượng quân đội. Những bài hát này đă được mô tả "cái dương vật như" dịch vụ cô dâu, bạn gái, chị em, và các bà mẹ. Và cũng có thể tuyên thệ nhậm chức để trả thù sau khi một căn nhà trở lại và là một "Jody" chính ḿnh (Clark, p.254).

"Ghost-Time" là sự biểu hiện của "Mỹ" binh sĩ trong thời gian miễn phí của họ (Clark, p.200). "Bằng cử nhân địa lư" là một tên được phát minh bởi các y tá đặt tên các bác sĩ đă lập gia đ́nh và binh lính với những người hành xử như cử nhân tại Việt Nam (Clark, p.199). "Holiday" bên ngoài của Việt Nam được gọi là "Nghỉ ngơi và thư giăn", "Rape và Ruin", "Nghỉ ngơi và giải trí", ngay "R & R" (Clark, p.420), hoặc cũng Bốn Fs ("Find'em, ngón tay ' em, fuck'em và forget'em "), hoặc" I & I ":" giao hợp và Intoxication "(Clark, p.240).

Một kỳ nghỉ như vậy đă đi qua trong khu vực ḥa b́nh trên chi phí của nhà nước ở Manila, Penang, Tai Pei, Kuala Lumpur, Tokyo, Singapore, Hong Kong, Bangkok, Australia, cũng ở Hawaii. Đối với Úc là những gợi ư cho người da đen không để đi đến đó. Hawaii chỉ được phép cho những người đàn ông đă lập gia đ́nh (Clark, p.420). Một kỳ nghỉ như vậy là có thể một lần mỗi năm (Clark, p.244).

đến nội dung     nach oben
5 Việt dân số

Holiday in Việt Nam: trong nước R & R
Kỳ nghỉ ở Việt Nam hiện đă được thực hiện ở "trung tâm" Vũng Tàu (trên bờ biển ở phía đông Sài G̣n) hay ở Trung Quốc Beach (trên bờ biển gần Đà Nẵng). Kỳ nghỉ này ở Việt Nam đă được giới hạn ở ba ngày, đă được đưa ra từ lệnh, và trong một số đơn vị đă được áp dụng nguyên tắc xoay ṿng, hoặc kỳ nghỉ đă được đưa ra như là một phần thưởng cho hành động giết chết nhiều thành công với kẻ thù giết chết hoặc hành động to lớn khác.

Tuy nhiên, nhiều "Hoa Kỳ" người lính không bao giờ có bất kỳ Country R & R (p.244).
Một khả năng khác cũng là một 3 ngày nghỉ trong "Meyercourt Hotel" ở Sài G̣n (p.322).

Việt teenies khi các hăng: "Mule" ("con lừa con ngựa")
Có những người dân Việt Nam mang theo vũ khí, đạn dược và các hàng hóa khác cho quân Bắc Việt Nam Bắc Việt / Việt Cộng. "Hoa Kỳ" binh sĩ gọi là những "con la" của Việt Nam. Những "con la" sử dụng đường Hồ Chí Minh, hoặc họ đă sử dụng những con đường ṃn cung cấp nhiều trong miền Nam Việt Nam. Họ vận chuyển hàng hóa của họ trên lưng của họ hoặc trên một chiếc xe đạp. Nói chung những người này vào lúc bắt đầu của năm teeny của họ, em trai hoặc em gái (p.337).

Tộc Trung Quốc Việt Nam trong dân số Việt Nam: căng thẳng
Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, một phần lớn dân số Việt Nam là người Trung Quốc. Họ đă sống toàn bộ Việt Nam với nồng độ lớn trong một khu phố Trung Quốc ở Sài G̣n, được gọi là "Chợ Lớn". Một số "Mỹ" binh sĩ được gọi là những người Trung Quốc dân tộc là "khe hở" và họ đă chiếm vị trí như thủ công mỹ nghệ, người bán, ngân hàng và làm việc trong thương mại xuất khẩu, nhập khẩu phi nông nghiệp. Sau khi căng thẳng giữa người Trung Quốc và Việt Nam trong nhiều năm qua dân số người Trung Quốc tại Việt Nam đă không tin tưởng và phân biệt đối xử nhiều lần.

"Bắc" là từ Việt Nam cho "phía Bắc" và nói chung được sử dụng để đặt tên cho Trung Quốc. "Trung Cộng" có nghĩa là "Cộng sản Trung Quốc" (p.99).

Elephant Tướng
là một phương Đông phía đông phiên bản của "cờ", trên tất cả chơi bởi những người đàn ông Việt Nam. Một người chơi cờ tốt là một biểu tượng trạng thái và có một vị trí tốt trong cơ cấu xă hội của Việt Nam (Clark, p.162).

Phụ nữ Việt Nam
Gái mại dâm, phụ nữ Việt Nam quầy bar và gái điếm đă được đẩy lên áo ngực hoặc để mở rộng vú của họ với đệm silicone để làm đẹp ḷng lính "Mỹ" (Clark, p.170).

Mại dâm được thực hiện tại các thị trấn và các ngôi làng lớn hơn của Việt Nam. Quân đội Bắc Việt Nam và Việt Cộng cũng phụ thuộc từ gái mại dâm để "đáp ứng" quân đội của họ. Đôi khi người bán dâm phục vụ "người Mỹ" trong ngày, và ngày hôm sau, cô là với những người lính từ miền Bắc Việt Nam và từ Việt Cộng (Clark, p.415-416). Số lượng lớn các kẻ chạy trốn Việt ở vùng quê nông thôn khiêu khích rằng mức lương ở đó đang rơi, và v́ vậy nhiều phụ nữ trẻ đă chọn mại dâm cho các loại h́nh làm việc của họ. Với những trường hợp mà người anh lớn đă được bán em gái hoặc người cha bán con gái và con trai (Clark, p.416).

Tội phạm trẻ miền Nam Việt Nam yếu tố xă hội đen đang lang thang trên đường phố Sài G̣n và các khu vực lớn hơn của các vùng nông thôn với xe tay ga của họ. Họ được gọi là "cao bồi", và người bạn gái hoặc chị em của xă hội đen được gọi là "Honda Girl". Nhiều người trong số họ là lười biếng của Mỹ " quân đội, đến từ gia đ́nh "tốt" và đă tham gia vào thương mại đen. Cowboys hoạt động thông thường trong những nhóm nhỏ của hai và nổi tiếng với các vụ trộm cắp của họ giành giật và cho các chuyến bay nhanh chóng của họ. một số người trong số họ đă làm việc trong ngành kinh doanh mại dâm bán bạn gái của họ. Các chàng cao bồi mang Girl Honda vào Mỹ " khu vực này. Người lính đi, nh́n cô gái và xử lư giá. Giá cho thuê là 6 để 20 $ và được chia tay giữa cô gái và chàng cao bồi (Clark, p.127).

Việt Nam, Phật giáo gái điếm không yêu nhiều t́nh dục bằng miệng "khi mút". Tại các thị trấn với gái điếm cũng không Phật giáo này là khá tốt. Tuy nhiên, 90% dân số Việt Nam là Phật giáo và t́nh dục bằng miệng là một điều cấm kỵ trên các vùng nông thôn. "Hoa Kỳ" binh sĩ gọi là "khi mút" cũng "Suckie-Suckie" / "tiếng chặt mạnh tay" (Clark, p.127).


đến nội dung     nach oben

6 Quân sự các thiết bị

Military thiết bị của "U.S.A."
Fort Campbell Kentucky (Mỹ) một trong những cơ sở đào tạo trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Fort De Russy một cơ sở nghỉ (R & R) trên Hawaii Đảo Oahu Waikiki Beach (Clark, p.184).

Fort Jackson (Fort Jacks) ở Nam Carolina ("USA") một cơ sở đào tạo thành lập trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Fort Sam Houston (Fort Sam) tại San Antonio tại Texas ("USA") một thành lập cơ sở đào tạo khác, trên tất cả các khóa học đào tạo y tế và điều dưỡng (Clark, p.185). Đức Lập Việt Nam 10 km từ biên giới Campuchia là một trại chỗ ngồi của Mỹ "Lực lượng đặc biệt. Đó là 50 km về phía tây nam của Ban Me Thốt Nốt (Clark, p.142).

Các thiết bị quân sự của quân đội Bắc Việt Nam / Việt Cộng
"Tam Giác Sắt" là trung tâm bị cáo buộc Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam, với các đường hầm và hầm ngầm (Clark, p.366).



đến nội dung     nach oben

7 Chiến lược quân sự trong chiến tranh Việt Nam

Domino lư thuyết / "Nguyên tắc Domino", tuyên truyền của một "mối đe dọa đỏ" / "Menace Red" h́nh sự "USA"
Năm 1954 là một lư thuyết phát triển trong "Hội đồng an ninh quốc gia" đă được tŕnh bày đầu tiên của Tổng thống Eisenhower, rằng bất kỳ nước nào sẽ có thể "rơi" vào chủ nghĩa cộng sản một sau khi khác như đá domino. Lư thuyết này đă được sử dụng như là một biện minh cho một sự hiện diện "Mỹ" ở Đông Nam Á. Coi Việt Nam "Hội đồng Bảo an" tuyên bố rằng khi miền Nam Việt Nam sẽ được thực hiện trên của cộng sản, sau đó tất cả các phần c̣n lại của Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Đông có lẽ cũng châu Âu sẽ giảm xuống "Challenge Red". Nhưng ví dụ như Thái Lan và Miến Điện không bao giờ cộng sản thay v́ tất cả tuyên truyền cộng sản (Clark, p.149).

Mùa khô và mùa mưa
Mùa khô từ Tháng Tư-Tháng Mười trong ngày 1 2 khu vực chiến tranh, từ tháng mười một-tháng tư chiến khu 3 4rd (Clark, p.156). Mưa gió mùa chặn bất kỳ hoạt động quân sự. Gió mùa Đông Nam đă được mô tả như là cloudbursts đột ngột. Gió mùa Đông Bắc bao phủ khu vực với những đám mây thấp treo và sương mù hạn chế hoạt động hàng không (Clark, p.332).


zum Inhalt     nach oben

8 Chiến thuật của quân đội Bắc Việt Nam / Việt Cộng

Miền Bắc Việt Nam đă chiến đấu với một chiến thuật du kích buộc địch phải bỏ thay v́ uy quyền tối cao kỹ thuật của ḿnh. Du kích chiến thuật khó có thể được chiến đấu bằng các phương pháp chiến tranh thông thường (Clark, p.211). Miền Bắc Việt Nam Việt Cộng đă làm việc với một tâm lư hầm và với hệ thống đường hầm nơi dân địa phương hoàn toàn có thể được ẩn dưới ḷng đất (Clark, p.73).

Quân đội miền Nam Việt Nam có xu hướng tránh các hành động lâu dài và quy mô hàng đầu vào khu vực đối phương. Tuy nhiên, kể từ năm 1968 trong thời gian Tết Mậu Thân, chiến thuật này của Bắc Việt Nam đă thay đổi chiến lược tấn công của quân đội Bắc Việt Nam Bắc Việt đă đưa miền Nam Việt Nam "USA" trong khó khăn nặng (Clark, p.73).

"Close Embrace chiến thuật" được gọi là chiến thuật bao quanh đối phương trong đường kính chỉ 20 đến 30 mét nên không khí vụ đánh bom là không thể nữa chính người dân của họ đă bị. Chiến thuật này rất hiệu quả đối với miền Bắc Việt Nam / Việt Cộng bởi v́ "Mỹ" Không quân không thể đánh bom bất kỳ khi Bắc Việt Nam đă gần "binh lính Mỹ và do đó sức mạnh bắn" USA "đă được đưa xuống bằng không nhiều hơn hoặc ít hơn (Clark, p.238).

Ẩn trong lĩnh vực những người lính đă đào một con mương, một "hang chồn". Rời khỏi vị trí hang chồn này cũng đă được lấp đầy một lần nữa để đối phương không thể "kế thừa" hố cá nhân. Đôi khi các mương đă được thực thi bởi các bao cát đă được vận chuyển bằng máy bay trực thăng (Clark, p.287).

Đôi khi Việt Cộng sử dụng cũng rắn độc trong kết nối với bẫy tôi hoặc họ rắn độc như một trở ngại trong các hệ thống đường hầm. Loài rắn này đă bị treo cổ trong đường hầm đă được cố định có dây để họ có thể di chuyển và cắn, nhưng họ không thể rời khỏi các đường hầm (Clark, p.473).

"Bốn Không" của miền Bắc Việt Nam Tổng Thống Thiệu thực tế cả trong chiến tranh:
"không nhượng bộ chính trị"
"không nhượng bộ lănh thổ"
"không thương mại hoặc trao đổi thương mại"
"không công nhận của đảng cộng sản Nam Việt Nam" (Clark, p.186).

Thiệu đă nhượng bộ vào năm 1973 khi ông bị buộc phải "USA" để làm như vậy (Clark, p.186).


đến nội dung     nach oben

Bất lực chiến thuật của "U.S.A." tại Việt Nam chống lại du kích miền Bắc Việt Nam

"U.S.A." không bao giờ tuyên chiến chính thức miền Bắc Việt Nam, và họ hoạt động tại Việt Nam mà không có bất kỳ tuyên bố chiến tranh. Nhiều nhà lănh đạo chính trị và quân sự của "USA" được tin tưởng trong toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam mà bất kỳ "Hoa Kỳ" can thiệp ở Đông Nam Á sẽ bị lên án thất bại ngay từ đầu bởi dự trữ đầy đủ quân sự đă được huy động (Clark, p.137).

"U.S.A." với các thiết bị thông thường của nó không bất kỳ cơ hội. Các ḍng hỗ trợ của đối phương không bao giờ có thể bị chặn bởi v́ du kích miền Bắc Việt Nam cũng có thể hoạt động trên Lào, nhưng không phải là "Mỹ" quân đội. Ngoài ra sự khác biệt giữa du kích và dân số dân sự nhiều hơn hoặc ít hơn không thể tương ứng cùng một người được một phần. "U.S.A." hầu như không bao giờ thể hoạt động với các vũ khí thông thường của họ. Trên bảng tính toán tối cao của 10 đến 15:1 sẽ là cần thiết. Nhưng "U.S.A." ở miền Nam Việt Nam chỉ đạt uy quyền của 5:1 (Clark, p.211).


Rụng lá chiến thuật
"Hoa Kỳ" chiến thuật với các tác nhân rụng lá ngộ độc đă được kéo dài từ 1961 đến 1970 lá rừng rậm với ư tưởng du kích Việt Cộng sẽ mất việc bảo vệ rừng, nhưng chủ yếu là không có thành công với nó (Clark, p.138). Có tên mă cho các hoạt động rụng lá, giống như "Hades hoạt động", sau đó "Chiến dịch Ranch Hand". Các lực lượng thực hiện các hành động phun là phi đội không quân thứ 12 của Mỹ " Không quân thực hiện những hành động này trên toàn miền Nam Việt Nam và hơn Lào dọc theo các đường phố và các con sông. Với phương châm "Chỉ có bạn mới có thể ngăn chặn rừng" và "Chúng tôi ngăn chặn cháy rừng" đă có ba máy bay mỗi lần không khí trong một chiều cao khoảng 100 feet phun ba gallon của đại lư phun cho mỗi mẫu Anh trên một chiều dài 16 km trên một chiều rộng của 80 m, và các phi đội bay chậm (Clark, p.378). Hành động phun cũng được thực hiện từ tàu thuyền dọc theo hai bên sông, và bằng tay xung quanh các thiết bị quân sự phá hủy bất cứ thực vật (Clark, p.138).

Các chất độc được áp dụng tương ứng thuốc trừ sâu có tên mă theo dải màu xác định trên các thùng chứa thuốc diệt cỏ (Clark, p.11), và do đó những cái tên đơn giản chỉ là "Agent Blue", "chất độc màu trắng", "chất độc màu hồng", "chất độc màu tím ", và" chất độc da cam "(Clark, p.378). Từ 1961 đến 1970 bên "Mỹ" phát triển 19.000 các loại chất làm rụng lá (Clark, p.138). Là một máy bay không khí "người Mỹ" sử dụng C-123, một cánh quạt máy bay của cựu vận chuyển hàng không Pháp Air Force (Clark, p.78). Những chiếc máy bay không khí giao thông vận tải đă có một đáy bọc thép. Một số của những chiếc máy bay không bị ảnh hưởng và bị rơi nào. Tất cả trong tất cả có được ước tính là 90 triệu gallon chất diệt cỏ được rải (Clark, p.378). Năm 1970 ngộ độc dài hạn hiệu lực của các đại lư đă được quy định và chương tŕnh chất làm rụng lá đă bị hủy bỏ. Phía Việt Nam gọi là Chương tŕnh rụng lá như "Thước Dao" ("độc") (Clark, p.138).

Chất độc màu trắng là một đại lư phun chống lại bất kỳ thảm thực vật xung quanh căn cứ "Mỹ" giết chết tất cả các cây bụi và cỏ dại, phun bằng máy bay trực thăng, xe tải và xe ba lô. Các đại lư là một hỗn hợp của axit picolininic và thuốc diệt cỏ 2-4-D, và nó có một hiệu ứng diễn xuất c̣n hơn Agent Blue (Clark, p.11).

Agent Blue là một đại lư phun chống lại bất kỳ thực vật: Các nhà máy đă được sấy khô, lá đă được thu hẹp lại và ngă xuống. Agent Blue được áp dụng trên tất cả so với thu hoạch lúa gạo ngày càng tăng của kẻ thù mà nó có tác dụng nhanh chóng. Nó cũng được áp dụng như là một chất làm rụng lá địa phương xung quanh các căn cứ và dọc theo đường phố (Clark, p.11).

Chất độc da cam là một loại thuốc diệt cỏ hóa học cho rụng lá. Cây cảnh, cây bụi và cây đă được phát triển trong một cách thức tế bào của họ đă bùng nổ và trong ṿng 5 đến 7 tuần, tất cả các nhà máy đă bị giết chết. Nhà máy đă chết ở 7 đến 12 tháng chết, và sau đó thêm một phun hành động là cần thiết. Các thành phần của chất làm rụng lá này là 2-4-5-T và 2-4-5-D (dioxin). Trong những dioxin lần là mạnh nhất hiện có chất độc. Chỉ sau này được biết rằng nó sẽ gây ra thiệt hại sinh và một danh sách đầy đủ các bệnh khác và các vấn đề sức khỏe (Clark, p.11).

Sau khi phát hiện ra những thiệt hại lâu dài, lưu trữ thuốc diệt cỏ chất độc da cam phải được đốt cháy. Các hành động đốt cháy được thực hiện trong ḷ SS Vulcanus. Bằng cách này, 1,2 triệu lít thuốc diệt cỏ đă được đốt cháy trên tàu trên biển, xa trên Thái B́nh Dương Bắc. Các hành động đốt cuối cùng là vào năm 1977 (Clark, p.485).


Chiến thuật để tiêu diệt các vụ thu hoạch
Bên "Mỹ" được gọi sự hủy diệt của thu hoạch hoặc ngộ độc của vụ thu hoạch đối phương "Quản lư tài nguyên" hoặc "Control tài nguyên". Các lĩnh vực Việt Cộng bên hoặc của người ủng hộ đă được rải xuống. Phương pháp này chỉ được áp dụng trong một số trường hợp, bởi Bắc Việt Nam cũng bán được thu hoạch để miền Nam Việt Nam (Clark, p.434).

[H́nh sự "U.S.A." lặp đi lặp lại sự phá hủy này thu hoạch vào những năm 1980 ở Columbia khi không chỉ các lĩnh vực ma túy đă được rải xuống mà c̣n lĩnh vực với rau sông tốt và cũng đă được rải xuống bị nhiễm độc.

Trong tháng Mười / Tháng 11 năm 1964 "Patch Big hoạt động" được thực hiện, và cũng "Spot hoạt động Hot". Vụ thu hoạch của phía Việt Cộng phải được tiêu huỷ bằng cách phun chất diệt cỏ. Lệnh đặc biệt của Mỹ "Không quân đă thực hiện sự tàn phá của vụ thu hoạch được thực hiện dưới sự kiểm soát của Chính phủ miền Nam Việt Nam với không khí máy bay C-123. Họ đă được tư vấn bởi các thành viên của Ranch Hand hoạt động (rụng lá hành động). Những vụ ngộ độc thu hoạch được thực hiện trong vùng thu hoạch Việt Cộng màu mỡ dọc theo đường biên giới Căm Bốt trong tỉnh Phước Long trong vùng chiến khu 3d. Phi công miền Nam Việt Nam từ chối thực hiện các chuyến bay một ḿnh, cũng có khi hộ tống đă được đảm bảo. Và do đó luôn luôn là một "Hoa Kỳ" thí điểm đă có được trong buồng lái như là một "chỉ huy tàu bay" (Clark, p.364).


Chính sách Trái đất Scorched / chính sách trái đất bị cháy
Mục đích của "U.S.A." một sự phá hủy hoàn toàn của kẻ thù bằng cách đốt san lấp mặt bằng các làng của đối phương, cũng những ngôi làng mà nghi ngờ để thông cảm với kẻ thù, phá hủy mùa màng và thức ăn động vật mà có thể hỗ trợ kẻ thù, chuyển dịch dân số và h́nh phạt của các thành viên gia đ́nh của kẻ thù và trừng phạt người ủng hộ. Với "U.S.A." cũng dẫn đầu một cuộc chiến tranh chống lại dân số dân sự - nhưng chính thức "USA" giả vờ để bảo vệ dân cư (Clark, p.454).

Lời trích dẫn từ việc xem xét "Chiến tranh của Flea":

"Chỉ có một cách để đánh bại một người nổi dậy sẽ không đầu hàng, và đó là tiêu diệt [...] chỉ có một cách để kiểm soát một vùng lănh thổ cảng kháng, và đó là để biến nó thành sa mạc. Phương tiện này không thể, v́ lư do ǵ, được sử dụng, chiến tranh bị mất. "(Clark, S.454).



Buộc chuyển trong miền Nam Việt Nam

Năm 1959, chính phủ của Tổng thống Diệm đă qua chương tŕnh "Agroville" từ Pháp.
Đây là một chương tŕnh chuyển buộc của các bộ phận của dân số của miền Nam Việt Nam và họ phải sống trong các làng mới được xây dựng "việc cải thiện các điều kiện sống của người dân thôn và nông dân (Clark, p.12) ư nghĩa nguyên tắc cưỡng bức di dời này chương tŕnh đă được tắc nghẽn liên lạc giữa dân sự dân miền Nam Việt Nam và Việt Cộng (Clark, p.434). Các mô h́nh cho chương tŕnh này vô nhân đạo đă buộc phải di dời thành công và thao tác dân số ở Malaysia Anh trong cuộc nội chiến để Anh có thể giành chiến thắng trong cuộc nội chiến (Clark, p.179). Trong các khu dân số giảm ở miền Nam Việt Nam, các làng cũ đă bị phá hủy bởi vụ nổ, đốt và ủi đất (Clark, p.434) và các khu vực được xác định là "Free-Fire-Khu" chống lại tất cả những người sẽ ở lại trong các lĩnh vực dân số giảm (Clark , p.179). Mong muốn thời gian sau đây để trả thù và t́nh trạng bất ổn v́ nhổ bật rễ này. Mới và "an toàn" làng cũng xâm nhập Việt Cộng và cũng đă bị tấn công bởi các lực lượng Việt Cộng (Clark, p.12).

Năm 1961 các chương tŕnh Agroville được đổi tên thành "Chương tŕnh ấp chiến lược" và cũng được kéo dài. Làng nông nghiệp đă được chuyển đổi và mở rộng thành điểm tăng cường quốc pḥng hoặc đă được chuyển đổi thành tiền gửi có bảo vệ chống lại Việt Cộng. Có những làng kiểu mẫu xây dựng, thực thi, bao quanh bởi hàng rào dây thép gai và cài đặt trong một khoảng cách ngắn đến các cơ sở quân đội miền Nam Việt Nam. Bởi những làng chiến lược, Chính phủ Diệm của Nam Việt Nam hy vọng sẽ nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn dân số dân miền Nam Việt Nam. Nhưng hy vọng này đă thất vọng v́ việc bảo vệ những ngôi làng này tăng cường được tổ chức bởi lực lượng dân quân địa phương mà thông thường không có đào tạo tương ứng và hầu như không được trang bị và có hầu như không có bất kỳ nhà lănh đạo, các khu định cư mới cũng đến từ các lĩnh vực quê hương, từ các thị trường cũ ; thêm vào điều này có dài giam vào doanh trại giới hạn thời gian làm việc, nhiều người đă bị cấm làm việc ở các vùng đất ban đầu của họ bởi v́ họ đến từ vùng lănh thổ mà Việt Cộng đă được điều chỉnh tại, và do đó bị ảnh hưởng đă phải thay đổi loại hoàn toàn của họ sống và sản xuất của họ . Với tất cả những tác dụng phụ hoàn thành chương tŕnh của chuyển đă rất được ưa chuộng (Clark, p.491). "Forced đô thị hoá" đă được kết nối với một huấn luyện mới cho một nghề mới và một phần là kết nối với các tông và tin "thành phố, nơi mà không có cuộc sống lành mạnh hơn nhưng nơi mà các bệnh thông thường trong những thị trấn đă được lan rộng (Clark, p 0,183).

Rhade Thượng Village là một ngôi làng mô h́nh của "Chương tŕnh ấp chiến lược" ở Tây Nguyên gần Ban Mê Thuột ở miền Nam Việt Nam. Đồng thời, sự nâng cấp xă hội và kinh tế nên đến xă hội Việt Nam dưới sự lănh đạo của "USA". Một dự án thành công trong ư nghĩa của "USA" là làng Buôn Enao. Nhưng điều này "Chương tŕnh Ấp chiến lược" không liên quan đến các ứng dụng trong cả nước (Clark, p.73).

T́nh h́nh đă được phát triển tồi tệ hơn và tồi tệ hơn v́ vậy dân số đă buộc phải chuyển địa điểm một lần nữa và đă được đưa vào các trại di dời tương tự như các trại tập trung, được gọi là "New Life Hamlet" và "cắm trại tái định cư". Liên lạc với bên ngoài đă bị cấm hệ thống để thao tác Việt Cộng đă được loại trừ khỏi dân số interned. Nhưng mục đích liên lạc an toàn với dân chúng và để lấy lại sự tự tin và sự hỗ trợ của dân chúng lại gặp thất bại một lần nữa với những mâu thuẫn của các điều kiện và tham nhũng, hối lộ và nỗi đau của chia ly từ quê hương của tổ tiên (Clark, p.345) . Có như một hành động di chuyển ví dụ năm 1962 được gọi là "Chiến dịch Sunrise" (Clark, p.381). Việt Cộng được gọi là các làng, bản mới "trại tập trung ngụy trang". Đó là tuyên truyền có Diệm thành công và Chính phủ không thể lấy lại niềm tin của người dân miền Nam Việt Nam một lần nữa (Clark, p.83).

Sau đó chương tŕnh được gọi là "tái định cư" giả vờ cảm giác rằng tất cả sẽ trên cơ sở tự nguyện. Dân số Việt Nam được gọi là chương tŕnh "ủi một ngôi làng" (Clark, p.435). Kể từ năm 1964 sau khi vụ ám sát Tổng thống Diệm của Nam Việt Nam, chương tŕnh tái định cư "Hamlets New Life" đă sụp đổ (chim sơn ca, p.83). Việc di dời bắt buộc chương tŕnh "chiến lược Hamlet" đă bị hủy bỏ (Clark, p.491). Nhưng dân số đă được thực tập trong những "làng" trái với ư muốn của họ cho đến năm 1975 (Clark, p.83). Kể từ cuối năm 1965 "Mỹ" đối thủ "Mỹ" Tổng thống Johnson đă kêu gọi những ngôi làng này doanh trại và các trại tị nạn ở miền Nam Việt Nam "Johnsonvilles" ("Johnson Towns"). Kể từ cuối năm 1965, các trại đă đến với số lượng lớn v́ "Mỹ" chữa cháy và do chính sách thay thế cưỡng bức (Clark, p.255).

"U.S.A." có chiến lược đánh bom mà không mất của người đàn ông. Chiến thuật này được gọi là "rộng Shells không Men". Đối với chiến thuật này "Mỹ" quân đội bộ binh đă phải làm công việc của họ lần đầu tiên phát hiện kẻ thù và truyền vị trí do đó, các cuộc không kích sẽ đánh kẻ thù (Clark, p.166).

Các dự án này không phải lúc nào cũng thành công v́ quân đội Bắc Việt Nam Bắc Việt / Việt Cộng đă cố gắng luôn luôn để đến Mỹ " đánh hơi các đơn vị gần nhất có thể và để giết chúng để họ không thể chạy trốn nữa và không thể truyền tải bất kỳ vị trí với bất kỳ mặt phẳng không khí của bất kỳ lực lượng không khí nữa. Thêm vào này Bắc Việt / Việt Cộng chỉ trong trường hợp hiếm hoi cho phát hiện trong các tập đoàn lớn hoặc để chỉ trong một số trường hợp hiếm gặp liên quan đến ḿnh trong trận chiến, ngoại trừ khi có được chiến thắng một lợi thế với nó (Clark, p.167).

Ngoài ra c̣n có "Set Piece-Chiến lược Trận chiến" của "USA" với mục đích để "làm cho ḥa b́nh" sau khi một trận chiến thắng. Đây là trận đấu b́nh thường lĩnh vực chiến lược mà có thể đoán trước "USA" nhưng khó có thể được áp dụng. Quân đội Bắc Việt Nam / Việt Cộng thường rút lui trước và đẩy thông qua điều kiện của riêng. Tuy nhiên, trong trận chiến trên mặt đất, họ luôn luôn bị tổn thất nặng nề bởi uy quyền của Mỹ " hỏa lực (Clark, p.461).

"Hoa Kỳ" chính sách được xây dựng các vùng đất được bảo vệ và khu bảo vệ dân số từ công tác tuyên truyền của đối phương, và được xây dựng bảo vệ các căn cứ và các cảng. Đây là "Enclave Policy". Đối với chính sách này với số lượng tương đối nhỏ của "Mỹ" quân đội đă được gửi đi. Và quân đội miền Nam Việt Nam SVA đang hoạt động ngoài của các vùng đất (Clark, p.164).

Kể từ tháng 9 năm 1965 cũng "Mỹ" Lực lượng chiến đấu đă được giới thiệu một "cuộc chiến tranh du kích" theo chiến lược "chiến tranh thông thường giới hạn" LCW. Khi một "Hoa Kỳ" đơn vị của hơn 4.000 người đàn ông, sau đó đơn vị này đă được đổi tên thành một đơn vị cho "chiến tranh thông thường Limited". Đây là không phải là nhiều so với một bộ phận kỵ binh truyền thống của tháng 9 năm 1965 trong đó bao gồm gần 20.000 người, và trong tháng 10 năm 1975, một sư đoàn bộ binh đă có gần 20.000 người (Clark, p.282).

Trong tháng tư năm 1967 "Mỹ" Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara đang nh́n chằm chằm một kế hoạch (với tên ban đầu của "Thực hành Nine"). Dự án được xây dựng một bức tường khổng lồ trong khu phi quân sự giữa Bắc và Nam Việt Nam dừng xâm nhập bởi nó. Bức tường này với tên "McNamara Wall" nên bao gồm một mạng lưới các mỏ, dây điện và cảm biến điện. Dự án không bao giờ được hoàn thành bởi v́ có nhu cầu pḥng thủ khác trong khu vực với ưu tiên hơn trong khi nó là một dự án yêu thích của McNamara. Năm 1967, dự án của bức tường đă được đổi tên thành "Illinois City" và sau đó vào "Marker Dye" trước khi nó được hoàn toàn (Clark, p.318).

Joseph Goldberg, đại sứ Liên Hợp Quốc của "USA", đă chiến đấu trong vô vọng cho một giải pháp đàm phán tại Việt Nam và trở thành một trong những cố vấn của "Mỹ" Tổng thống Johnson Tháng ba 1968 (Clark, p.202).

Năm 1968, Fulbright tạo ra một thuật ngữ mới cho một giải pháp đàm phán, "Phương tŕnh thuận lợi cho cả hai bên như là một điều kiện tiên quyết mà Bắc Việt Nam sẽ chấp nhận để vào đàm phán, bởi v́ không có nhận được một lợi thế miền Bắc Việt Nam sẽ không bao giờ vào các cuộc đàm phán. Ngoài ra miền Bắc Việt Nam sẽ yêu thêm một chiến thắng hơn là một sự thỏa hiệp. Do đó U.S.A. " nên mở rộng các vụ đánh bom và quân đội của họ không mất tại Việt Nam (Clark, p.165).

Sau Tết Mậu Thân năm 1968 "Hoa Kỳ" chiến lược quân sự đă được thay đổi và "chiến lược bài Tet'68" đă được phát minh với một "Kinh tế Force" tương ứng với một "chiến lược Quốc pḥng".

- "Hoa Kỳ" cuộc tấn công nên được giảm và vị trí pḥng thủ nên được chấp nhận (Clark, p.160)

- Nên tập trung bảo vệ các thị trấn và các cơ sở cần được bàn giao cho bước Việt Nam bước ("Việt Nam")

- Và không nên có hoạt động mặt đất vào lănh thổ miền Bắc Việt Nam.

Chiến thuật này là thực hành với các lực lượng có sẵn thực hiện các nhiệm vụ quân sự với chi phí ít nhất (Clark, p.161).


Trong tháng hai năm 1969 "Mỹ" chiến lược được tập trung vào một "Kế hoạch chiến tranh Một" mới với những trọng tâm của "măn" tăng tốc và tạo ra an toàn lănh thổ, với sự phát triển của quân đội miền Nam Việt Nam như là một lực lượng chiến đấu độc lập, và chiến tranh nên được Việt hóa từng bước."Hoa Kỳ" đội quân này được hạn chế để thực hiện nhiệm vụ quốc pḥng và hỗ trợ cho quân đội miền Nam Việt Nam (Clark, p.362).

Năm 1971, "Hoa Kỳ" quân phiệt phát triển chiến lược "Quốc pḥng năng động" tương ứng "Quốc pḥng di động" bảo vệ "Mỹ" các căn cứ và làng chiến lược tại Việt Nam: lực lượng mặt đất làm cho tuần tra xung quanh thị trấn và được kiểm soát cài đặt cản trở quân đội Bắc Việt Nam Bắc Việt / Việt Cộng để khởi động các cuộc tấn công tên lửa. Trong tất cả các quân đội miền Nam Việt Nam nên nắm giữ các vị trí của họ. "Năng động, Quốc pḥng" một sửa đổi của chính sách vùng đất được bảo vệ "Mỹ" đơn vị (Clark, p.158).

Trong tháng 11 năm 1973 "U.S.A." thông qua "War Powers Act" có nghĩa vụ Tổng thống để thực hiện một "tuyên bố chiến tranh" chính thức "Mỹ" quân hơn 90 ngày trong một hành động chiến đấu. Bằng cách này, một "thứ hai Việt Nam" cần được ngăn chặn (Clark, p.554).


đến nội dung     nach oben
10  Lặp đi lặp lại hoạt động quân sự

"Friendly Fires" (bị ném bom các đơn vị quân đội của) khi quân đă bị đánh bom do nhầm lẫn.Chết và bị thương (với "Những vết thương thân thiện"). "Friendly Fires" không xuất hiện trong các số liệu thống kê v́ không có hiệu lực của đối phương. Cũng sai khúc nổi tiếng của miền Nam Việt Nam quân đội Mỹ "quân đội được đánh giá là "Friendly Fires". Như vậy khoảng cách an toàn cho các đơn vị quân lân cận đă được giới thiệu (Clark, p.190).

Quân đội rà phá bom ḿn đă được gọi "sử dụng Ordnance nổ EOD, DUD. Họ đă làm việc không phải thiết bị phát nổ, ḿn, bẫy ḿn và vật liệu quân sự khác phải được loại bỏ được gây nguy hiểm cho quân đội hoặc dân số dân sự. Bắc Việt / Việt Cộng quân đội Bắc Việt Nam được sử dụng trên tất cả các mỏ và các thiết bị theo h́nh thức bẫy mỏ chống lại "lực lượng quân sự thế giới miễn phí". Nhiều người trong số các hành động của quân đội rà phá bom ḿn cũng đă được thực hiện bởi quân đội bộ binh b́nh thường (Clark, p.167).

Xâm nhập đă làm việc tốt nhất trong khu vực biên giới. Voi chân một đồng bằng của tỉnh Kein Tượng trong vùng 4 "Mỹ" quân đoàn, phía bắc của Mục Hoa dọc theo đường biên giới Campuchia. Đồng bằng này được sử dụng cho công việc xâm nhập của quân đội Bắc Việt Nam Bắc Việt / Việt Cộng mang dụng cụ và hỗ trợ xuống Sài G̣n (Clark, p.163).

Trong thời gian chiến tranh Việt Nam miền Nam Việt Nam đă được nhiều hơn và nhiều hơn nữa chuyển đổi thành một khu vực-Go (nhà lănh thổ) và No Go-khu vực (lănh thổ của đối phương). Go khu dân cư được hỗ trợ, trong các lĩnh vực No-Go-không (Clark, p.202).

Chiến tranh tâm lư được hỗ trợ bởi máy bay trực thăng. Máy bay trực thăng đă được lan truyền tin nhắn và giả tuyên truyền bằng loa phóng thanh đi qua các lĩnh vực của đối phương. Tuyên truyền giả nói trên băng và được phát lại. Tuyên truyền sau đó giả cũng lan truyền trên đài phát thanh (Clark, p.159-160).

đến nội dung     nach oben

11  Phạt tù và tra tấn trong thời gian chiến tranh Việt Nam

Bắc Việt Nam phương pháp tra tấn với kẻ bị giam cầm
Phương pháp tra tấn của quân đội miền Bắc Việt Nam với "Hoa Kỳ" binh lính giảm của giấc ngủ, bị biệt giam trong nhiều năm qua, giữ giam cầm sắt trong tuần, cản trở lưu thông máu, đói và khát, số truy cập với ống cao su, thắt lưng và bằng tre, chaining cơ thể ở các vị trí khác nhau ngăn chặn sự lưu thông máu và dây thần kinh, găy xương, mở vết thương nhiễm trùng gây ra, từ chối trợ giúp y tế hoặc những cú sốc điện (Clark, p.518).

Việt Cộng và một số "nhóm thu thập t́nh báo" đă được áp dụng "Tiger Cage". Captives bị buộc vào một hộp tre ít tuần kích động biến dạng của cơ thể. Trên đảo Côn Sơn nuôi nhốt lồng nhưng lỗ hang nhỏ đo 5 9 feet ("ngầm các tế bào"), với hệ thống thông gió nhỏ chỉ, nhưng với kư sinh trùng và với các lỗi (Clark, p.513). "Mỹ" kẻ bị giam cầm đă được gọi là "Tù nhân chiến tranh" (POW). Họ được giữ ở Lào, ở miền Bắc Việt Nam, và ở Trung Quốc. Tất cả trong tất cả, đă có 591 "American" kẻ bị giam cầm, các thành viên chủ yếu là quân đội, một đại lư của CIA, và một số dân thường. Cuối cùng "Hoa Kỳ" người lính được giải phóng tháng ba năm 1973. 2.300 "Hoa Kỳ" "Người Mỹ đă" biến mất ". Theo tin đồn một số "người Mỹ" trong các nhà tù Bắc Việt Nam cho đến ngày hôm nay. Báo cáo này Việt Nam, Campuchia và Lào, người tị nạn và một số nhiệm vụ bán quân sự bất hợp pháp xác nhận những tin đồn (Clark, p.22). Không được tôn trọng Công ước Geneva (Clark, p.411) bởi v́ "người Mỹ" được đánh giá là tội phạm v́ "USA" chính thức không bao giờ tuyên bố bất kỳ cuộc chiến tranh nào (Clark, p.568).

Miền Nam Việt Nam phương pháp tra tấn với kẻ bị giam cầm
"Người Mỹ" đă được áp dụng chủ yếu là hit. Ông chủ của miền Nam Việt Nam đă áp dụng các phương pháp tra tấn khác truyền thống với Bắc Việt muốn đặt một miếng giẻ vào miệng được tưới nước ("chậm chết đuối"), điện thực hiện với một cây gậy với một cột sống của một động vật trên nó, hoặc thực hiện điện với máy phát điện được quản lư bằng tay, hoặc nội trú nước, hoặc loại bỏ da, hoặc truy cập trên dưới cùng của bàn chân bằng tre splittered, hoặc sửa chữa trên cột và mặt đất đă bị vấy bẩn với mật ong và kiến ​​đen đang đến và cắn giam cầm mà không có kết thúc, hoặc một con rắn nước không độc nhưng tích cực được đưa vào trong áo, hoặc có số truy cập hoặc lạm dụng bằng lời nói không thể tin được (Clark, p.517).

Bắc Việt "Tiger Cage" cũng được áp dụng với một sự thay đổi trong quân đội miền Nam Việt Nam SVA. Một căn pḥng nhỏ được trang bị dây thép gai, từ 10 đến 12 inches trên sàn nhà. Trên bề mặt, giam cầm đă thường hoặc nửa trần truồng, chủ yếu là dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp. Tra tấn này có thể được kết hợp với khát. Kích động đau nhiều hơn với những vết thương kẻ bị bắt có thể được tưới bằng nước mặn (Clark, p.513).

Phương pháp Ả Rập đă được sao chép bởi quân đội miền Nam Việt Nam và bị cáo buộc đă được sao chép bởi các cố vấn CIA ràng buộc đôi mắt của nạn nhân, ràng buộc nạn nhân trần truồng trên một chiếc ghế và để lại nạn nhân trong vài giờ trong một cô lập theo cách đó. Sau đó, kẻ bị bắt đă được truy vấn. Và nạn nhân bị mất bất kỳ định hướng và nó kháng được sụp đổ nhanh chóng sau đó (Clark, p.29).

Cứng rắn và softliners trong xă hội
"Mỹ" tù binh chiến tranh (tù nhân chiến tranh) không nói bất cứ điều ǵ được gọi là "diehards" hay "cứng rắn" (Clark, p.175). Đường lối cứng rắn trong điều kiện nuôi nhốt theo các quy tắc của quân sự bị giam cầm từ từ, ở trên tất cả các phi công Hải quân và phi công chiến đấu. Kiểu này bị bắt giữ đă được nghi ngờ tất cả các tù nhân trong trại giam, những người không thực hiện các quy tắc hoàn toàn tuyên bố rằng những người sẽ là cộng tác viên với kẻ thù (Clark, p.219).

Softliners trong điều kiện nuôi nhốt đă được nói nhiều khi các phương pháp tra tấn rất khó để tồn tại (Clark, p.219).

"Fink" đă được gọi là một số "Mỹ" những người lính đă hoàn toàn hợp tác với quân đội miền Bắc Việt Nam. Họ được gọi là "Fink" và tồi tệ hơn (Clark, p.219). Giới thiệu "Hoa Kỳ" POW (tù nhân chiến tranh) những người đă cộng tác với miền Bắc Việt Nam quân đội Bắc Việt đă nói họ sẽ làm việc trong Chương tŕnh "Phát hành Fink (Clark, p.175). Họ có một phương pháp điều trị rộng răi, thức ăn tốt hơn, họ có khả năng đào tạo và cuộc sống tốt hơn điều kiện (Clark, p.175).

"Hoa Kỳ" phản bội Robert Garwood được giam giữ bởi Việt Cộng vào năm 1965 và chuyển đổi và sau đó chiến đấu chống lại "Hoa Kỳ" quân đội. Cuối cùng, ông nói tiếng Việt trôi chảy và thậm chí c̣n bảo vệ "Mỹ" kẻ bị giam cầm là một trong nhiều kẻ nổi loạn của chủ nghĩa tư bản (Clark, p.197).

Tù nhân ngoại tệ
Năm 1973, "Chiến dịch Homecoming" là một phần của Hiệp định Paris. 591 "Hoa Kỳ" Mỹ đă được phát hành từ Việt Cộng đến từ Sài G̣n, từ miền Bắc Việt Nam quân đội Bắc Việt đến từ Hà Nội và từ Trung Quốc đến từ Hồng Kông.

Đầu tiên là "người Mỹ" đă được vận chuyển đến một kiểm tra y tế Philippines và đă được phát hành từ bất kỳ nghĩa vụ quân sự. Sau đó, họ đă trở lại để "U.S.A". bệnh viện quân sự (Clark, p.371). Tất cả trong tất cả 591 "người Mỹ" và 5.000 miền Nam Việt Nam đă được trao đổi với 26.500 Bắc Việt (Clark, p.411). Một số Bắc Việt từ chối quay trở lại miền Bắc Việt Nam (Clark, p.432). Năm 1990, Việt Nam tuyên bố rằng không có "Mỹ" kẻ bị giam cầm nữa (Clark, p.22).



đến nội dung     nach oben
12  Phong trào phản chiến trong "U.S.A."


Kể từ năm 1960, phong trào chiến tranh chống trong "U.S.A." đến với các khẩu hiệu mới như
- "Tự do bây giờ, thu hồi ngay bây giờ" (Clark, p.189)
- "Yankee Go Home" (Clark, p.568)
- "Fuck The Army" (Clark, p.194)

"Hoa Kỳ" binh sĩ đă nói "Fuck Quân đội" là một cuộc biểu t́nh im lặng đối với dịch vụ Việt Nam của họ đă được khủng bố bổ sung "cho vui" bởi "Lifers" (Clark, p.194).

Kể từ những năm 1960, các nhóm chống chiến tranh đầu trong "USA" đă bắt đầu tổ chức các cuộc họp trong hội trường lớn, như vậy gọi là "dạy-in". đôi khi hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn người đă đến và đă thảo luận về có. Các buổi họp này có thể kéo dài giờ hoặc thậm chí cả ngày. Ngủ đă được tổ chức trong pḥng ngủ, pḥng thể dục hoặc trong khán pḥng chính nó (Clark, p.505).

Kể từ tháng 9 năm 1964, đă có trận đấu đầu tiên trong "USA" về tự do ngôn luận. Ở Berkeley, Đại học California, một phong trào tự do ngôn luận (FSM) được thành lập theo của nhà lănh đạo Mario Savio. Nhóm này Speech miễn phí từ Đại học Berkeley là một phe đối lập chống lại báo chí và chống chiến tranh. Savio đă bị bắt giữ v́ câu nói tự do chính trị. Nhưng tại Freedom of Speech ra trên đầu trang (Clark, p.188).

"Girls Chỉ Say Yes Nam giới Say No" là một bài hát phản chiến trong các trại khuyến khích trẻ em gái và phụ nữ trẻ từ chối bất kỳ t́nh yêu dành cho người đàn ông những người đă chiến đấu trong cuộc chiến tranh Việt Nam hoặc để lại cho họ (Clark, p.201).

Bob Dylan là một ca sĩ nhạc rock nổi tiếng với những bài hát chống chiến tranh trong những năm 1960. Dylan đă nói trong bài hát của ḿnh về sự bất công trong chiến tranh, về phụ nữ và văn hóa thuốc mới. Thông thường, Bob Dylan đă được xác định với các phong trào phản chiến v́ một số bài hát của ông đă được nói về các chủ đề thực tế. Không một bài hát đă được trực tiếp đề cập đến Việt Nam, nhưng một số bài hát của ông có chỉ ra bệnh "Mỹ" xă hội đă trở thành. Tên riêng của Dylan là Robert Zimmermann, sinh năm 1941 tại Duluth, Minnesota (Clark, p.156).

Năm 1967, các cựu chiến binh Việt Nam đă thành lập một tổ chức chống chiến tranh "cựu chiến binh Việt Nam chống chiến tranh" (VVAW) và họ là một phần của các cuộc biểu t́nh (Clark, p.547).

Vào tháng Tư năm 1970, người hâm mộ của phong trào phản chiến đă biểu t́nh chống lại Mỹ " cuộc xâm lược đất ở Campuchia. Các sinh viên đă có một kế hoạch để thiết lập các trung tâm của "Reserve Officer Training Corps (ROTC) trên lửa. Trong 04 tháng năm năm 1970 các cuộc biểu t́nh kết thúc với một leo thang. Các sinh viên bị từ chối nghỉ hưu, cảnh sát tấn công và bắn vào các cuộc biểu t́nh làm chết 4 sinh viên của Đại học Kent. Thêm 14 sinh viên bị thương và sau đó họ được xuất viện trong một thử nghiệm. Các cuộc biểu t́nh có thêm phần chống chiến tranh tháng 5 năm 1970 tại Jackson State University, nơi hai sinh viên da đen đă bị giết bằng cách bắn cảnh sát, và không phải là một cảnh sát đă bị trừng phạt (Clark, p.261).

"Burn ḿnh, chứ không phải thẻ của bạn Dự thảo" là một trong những điệp khúc của những kẻ thù của phong trào phản chiến và biểu t́nh chính phủ thân thiện. Điệp khúc đặc biệt này đề cập đến các sự cố Morrison khi vào ngày 02 Tháng Mười Một năm 1965 Norman Morrison đă tự giới thiệu ḿnh trên cầu thang của Lầu Năm Góc đổ ḿnh với xăng và tự thiêu. Một thứ hai tự thiêu vào ngày 09 tháng 11 năm 1965 gần, nhưng bên ngoài của Mỹ " xây dựng nhà nước (Clark, p.74).
 
Năm 1971 cựu chiến binh Việt Nam đă thực hiện một cuộc điều tra chính thức và điều trần tại Detroit về "Mỹ" tội phạm chiến tranh tại Việt Nam. Theo điều tra một nhà hoạt động phản chiến, Jane Fonda, đă thành lập tổ chức "Điều tra người lính mùa đông". Cô đă tŕnh bày các nhân chứng, cô đă tŕnh bày các thủ phạm đă phạm tội ác chiến tranh, và cô tŕnh bày đă sao lăng trong "Hoa Kỳ" quân đội lănh đạo. Điều tra được công bố vào năm 1972, nhưng chính phủ tuyên truyền của tội phạm Tổng thống Nixon] đang suy yếu và chiến đấu với điều tra của khóa học (Clark, p.547).

Jane Fonda: Cô ấy là một nữ diễn viên "Mỹ" và nhà hoạt động phản chiến nổi tiếng đă có những cảnh khỏa thân của cô trong phim "Barbarella". Năm 1972, cô đă đến Hà Nội biểu t́nh phản đối cuộc không kích ở phía trước của các di tích. Này khiêu khích rằng cô ấy không yêu nữa bởi lính. Sau đó cô đă kết hôn với nhà hoạt động chống chiến tranh Tom Hayden (Clark, p.183).



đến nội dung     nach oben

13  Dự thảo, phản đối vụ quân sự và phong trào ḥa b́nh trong "USA"

Công giáo công nhân Phong trào là một trong những nhóm phản chiến trong "USA", được thành lập vào năm 1960 tại New York (Clark, p.90).

Trong nửa đầu của năm 1964 năm "U.S.A." soạn thảo để phục vụ trong quân đội mỗi tháng 17.000 binh sĩ, kể từ ngày trên 35.000 mỗi tháng. Tất cả trong tất cả 2.000.000 người đàn ông trẻ tuổi từ 18 đến 26 tuổi đă được soạn thảo, từ 17 triệu người đàn ông "có khả năng cho dự thảo" trong "USA" (Clark, p.153).

Thời hạn hết hạn của ETS Dịch vụ
Hạn phục vụ cho lính trong chiến tranh Việt Nam là hai năm. Sau khi phát hành, người lính có khi ông đă phục vụ tại Việt Nam - để phục vụ trong dự trữ trong bốn năm, đă có mặt tại các cuộc họp dự trữ mỗi tháng và đă có để làm một dịch vụ mỗi mùa hè trong hai tuần. Cuối cùng, ông có một chứng chỉ. Những người lính đă phục vụ ở Việt Nam được trả tự do của các dịch vụ dự pḥng (Clark, p.167).

Chọn lọc hệ thống dịch vụ
Chọn lọc hệ thống dịch vụ đă được áp dụng cho đến năm 1969 và đă được sửa chữa hạn ngạch. Dự thảo thông báo được làm ra bởi địa phương "Ban Dịch vụ chọn lọc". Những người ở các vị trí nghề nghiệp quan trọng có thể trốn tránh dự thảo quân sự tuyên bố ḿnh là không thể thiếu. Hệ thống dự trữ và bất b́nh đẳng trong các thủ tục bầu cử này đă gây ra sự mất cân bằng trong dự thảo. Do đó, một dự thảo là không thể xảy ra cho một phần của xă hội "Mỹ" cho đến năm 1969, tương ứng các phương pháp trốn tránh một dự thảo được chấp nhận mà không phản đối. Tuy nhiên, dự thảo chủ yếu là ít được giáo dục, hoặc người da trắng nghèo, người da đen, hoặc Hispanos, bởi v́ họ không thông minh và không có kết nối và hầu như không thể áp dụng một phương pháp trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Clark, p.459).

"Draft Lottery" kể từ năm 1969
Từ năm 1969 lựa chọn dịch vụ áp dụng một hệ thống xổ số cho dự thảo trên cơ sở của ngày tháng năm sinh trốn tránh một t́nh trạng đặc biệt của tầng lớp trung và thượng lưu. Năm 1972, Nixon đă kết thúc dự thảo "Hoa Kỳ". binh sĩ cho Việt Nam (Clark, p.153).

"Active Duty mở rộng" ("mở rộng của thời gian dịch vụ")
Khi dự thảo tại một trường máy bay trực thăng, sau đó thời gian dịch vụ đă được ba năm. Từ lính như một nghề nghiệp đă được lựa chọn thường trốn tránh một vị trí quân đội trong "USA" (Clark, p.167). Đối với những trường huấn luyện bay đă được danh sách chờ đợi (Clark, p.151) và nó có thể là ở cuối phi công máy bay trực thăng cũng đă kết thúc như một "pháo thủ cửa". Bất kỳ hạn 6 tháng cũng mang lại thêm một 7 ngày nghỉ vào một nơi an toàn (R & R). Mở rộng dịch vụ điển h́nh kéo dài giữa hai số tiền năm đồng tháng (Clark, p.167).

Tư vấn với mục tiêu để trốn tránh bản dự thảo
Từ 1964 đến 1968, đă có một số nhóm phản chiến với các dịch vụ tư vấn cho thanh niên giúp họ trong các phương pháp dự thảo có thể được trốn:

- Rời khỏi đất nước
- Xấu đi các điều kiện vật lư trên cơ thể được phân loại là không thích hợp
- Sống với đói và trọng lượng mất do đó, người sẽ là dưới giới hạn trọng lượng cho một dịch vụ quân sự
Ăn như mỡ động vật vượt quá giới hạn trọng lượng cho một dịch vụ quân sự
- Nhận nghiện thuốc [không được chấp nhận trong quân đội]
- Hiển thị một đồng tính luyến ái một cách thuyết phục [đă bị cấm trong quân đội]
- Giả một sự bất ổn tâm thần hoặc đạt được một sự bất ổn định tâm thần với các thuốc
- Sử dụng ma túy để xét nghiệm máu mà không có một kết quả hữu ích hoặc với kết quả giả
- Cầu xin cho các báo cáo y tế của các bác sĩ, bác sĩ tâm thần và các nha sĩ tuyên bố người là không thích hợp
- Bác sĩ có thể cài đặt thiết bị bổ sung "(nẹp, băng, vv) để người được bầu không có thể có dự thảo (Clark, p.153).

Draft-dodging (cản trở nghĩa vụ quân sự) 1964-1968
Nhiều tổ chức dưới ḷng đất bắt đầu để giúp những chiến binh để né tránh một dịch vụ chiến đấu tại Việt Nam và hoạt động trên toàn thế giới: Anh, Thụy Điển, Canada, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Ireland, và ở các nước khác (Clark, p.141). Dự thảo trốn đă gia tăng trong thời gian chiến tranh Việt Nam và đă phát triển một nghệ thuật: 1.000 s của trẻ và cơ thể phù hợp với "Mỹ" người đàn ông từ 19 đến 26, chủ yếu là từ tầng lớp trung lưu và thượng lưu, đă được thực hiện bất cứ điều ǵ trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Hầu hết chống đối đă được cầu xin cho các tài liệu giả mạo về t́nh trạng thể chất, tinh thần hay cảm xúc của họ và đă thành công với nó.

Do đó, dưới tầng lớp trung lưu và các lớp thấp nhất chủ yếu bị ảnh hưởng bởi chiến tranh Việt Nam. Một số các chống đối thậm chí c̣n đến thăm các hội thảo mục sư tôn giáo, hội thảo giáo viên, cao đẳng và các bài giảng nhiều hơn đến giấy chứng nhận bác sĩ (mà có thể được tŕnh bày như là một lư do để không phải là dự thảo cho đến năm 1968). Ngoài ra hôn nhân (có thể là một lư do cho đến khi năm 1966), hoặc mất cân hoặc tăng cân quá mức, do đó các ứng cử viên bên ngoài của bất kỳ giới hạn trọng lượng, hoặc một khả năng bị từ chối cho một dự thảo quân sự là chiếc khăn kim cơ thể giả vờ một loại thuốc nghiện. (Người tiêu dùng thuốc thường bị từ chối nghĩa vụ quân sự).

Lư do nhiều hơn so với một dịch vụ quân sự ở Việt Nam là:

- Chứng minh cho một lạm dụng ma túy tiếp tục bất hợp pháp

- Bằng chứng phạm tội: bị kết tội giết người không thể đi đến Việt Nam để đi giết

Lư do chuyên nghiệp có thể thực hiện một sự chậm trễ hoặc tŕ hoăn

Đeo nẹp chân tay giả kết hợp với giấy chứng nhận của bác sĩ có thể thực hiện một cuộc giải phóng nghĩa vụ quân sự trong một thời gian nhất định v́ đối tượng đă được đeo một thời gian nhất định (cũng được nha sĩ đă cài đặt răng giả và chân tay giả khi họ được payed cho nó)

Giấy chứng nhận y tế có thể giúp đỡ để từ chối nghĩa vụ quân sự cho rằng người dự thảo là một phương pháp điều trị tâm thần hoặc tâm thần

Uống thuốc ngay trước khi các kiểm tra cơ thể có thể ảnh hưởng rằng các thử nghiệm cơ thể đă không hoàn thành

- Cũng là cắt cụt chân tay, ví dụ như cắt cụt tự do muốn của ngón trỏ hoặc ngón chân, là một phương pháp để người bị ảnh hưởng đă được giải phóng từ bất kỳ dịch vụ nào tại Việt Nam và đă có một số trường hợp như thế này

- Sự thật hay giả vờ đồng tính luyến ái có thể được hiển thị với các bác sĩ nhưng đă được thuyết phục (Clark, p.153)

- Một số bệnh ngoài da cũng có thể thực hiện một sự giải phóng của dịch vụ tại Việt Nam, đặc biệt là các bệnh ngoài da truyền nhiễm, bệnh da cần điều trị đặc biệt

- Cũng ăn một lượng lớn thực phẩm đă gây ra rằng các thử nghiệm máu có thể không được sử dụng

- Khi một thành viên gần gũi trong gia đ́nh phụ thuộc từ việc chữa bệnh của người dự thảo, điều này cũng có thể gây ra một cuộc giải phóng của bất kỳ dịch vụ nào trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ví dụ như với một cô dâu có cồn hoặc với cô dâu nghiện ma tuư. Phương pháp này trốn từ Việt Nam làm việc cũng có khi cô dâu được đánh giá là bị bệnh tâm thần

- Khi người dự thảo thực hiện các hành động mà chỉ có thể được phân loại vào một người điên hoặc trẻ con, sau đó một dịch vụ tại Việt Nam cũng không thể

- Xương bị găy mà không được đan tốt với nhau nữa cũng là một lư do cho sự giải phóng khỏi bất kỳ dịch vụ trong chiến tranh Việt Nam, và những phần xương găy được khiêu khích của người bị ảnh hưởng của ḿnh bằng cách tự cắt xén (Clark, p.154)

- Sau khoảng 1967 lính tại Việt Nam cũng bắt đầu né tránh các thuốc chữa bệnh sốt rét pḥng ngừa hy vọng rằng một căn bệnh sốt rét sẽ giải phóng chúng từ bất kỳ dịch vụ hơn nữa trong cuộc chiến tranh Việt Nam (Clark, p.311).

1965: David Miller: Dự thảo thẻ ghi đĩa
David Miller, 22 tuổi, cháy trong tháng 10 năm 1965 dự thảo thẻ của ḿnh gần trung tâm dự thảo tại Whitehall Street ở Manhattan ở New York, trong một sự kiện biểu t́nh. Cảnh quan này hoàn toàn truyền trong truyền h́nh quốc gia. Miller ḿnh bị kết tội như một tŕnh ghi thẻ và 2 năm tù v́ tội đó (Clark, p.90) nhưng ông đă không đi đến chiến tranh Việt Nam].

1965: Dự thảo thẻ ghi đĩa và Bill 392
Kể từ năm 1965, một số thành viên của phong trào phản chiến đă đốt thẻ dự thảo của họ như là một cử chỉ tượng trưng chống lại bất kỳ cuộc chiến tranh. Như trả thù một Quốc hội được đi qua một đạo luật khắc nghiệt chống lại các đốt. Tuy nhiên, dự luật mới 392 không dừng lại bất kỳ đốt thẻ dự thảo, và một số những người biểu t́nh đă chụp và trừng phạt (Clark, p.154) [nhưng họ đă không bao giờ đi để phục vụ trong chiến tranh Việt Nam].

Ngày 30 tháng tám năm 1965, Tổng thống Johnson đă kư Bill 392 chống lại dự thảo thẻ cháy: Cố ư phá hủy, cắt xén hoặc gây tổn hại của thẻ dự thảo đă bị xử phạt. Pháp luật, trong trường hợp của niềm tin một h́nh phạt lên đến 10.000 $ và 5 năm tù. Luật pháp là câu trả lời cho một sự thiếu tôn trọng phát triển hệ thống dự thảo của một số nhóm của phong trào phản chiến và sự thờ ơ của họ để những người lính phục vụ - đây là văn bản của nhà nước (Clark, p.57).

[À, "U.S.A." và các đồng minh của họ như Úc, New Zealand, Philippines và Thái Lan không bao giờ có bất kỳ sự tôn trọng liên quan đến người dân Việt Nam không bao giờ muốn được chia như Đức được chia với một bức tường và hàng rào dây thép gai].

Dự thảo "U.S.A". từ 1975 để 1979
Năm 1975, Tổng thống Ford đă kết thúc việc đăng kư dự thảo. Năm 1977 Tổng thống Carter đă xin lỗi cho tất cả những người đă bị kết án v́ vi phạm luật nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, vào năm 1979 Tổng thống Carter được Giới thiệu lại dự thảo đăng kư một lần nữa (Clark, p.153).

Khắc phục sự phân biệt đối xử chống đối vụ quân sự
Trong "U.S.A." người được một phần đánh giá cao nhất với thực tế nếu họ đă thực hiện một dịch vụ tại Việt Nam hoặc không. Ngoài ra c̣n có một phân loại được gọi là "không mong muốn khi xuất viện" (UDC) và "Xả Khoan Hồng" (CD).

Khi kết thúc một "Shamnesty Board" đă tiếp nhận vấn đề để phục hồi "Bắn không mong muốn". Bắn không mong muốn từ các cựu chiến binh bị thương hoặc được trang trí đă được đánh giá cao hơn sau đó với sự giải thoát chung của một cuộc giải phóng vinh dự. Shamnesty Hội đồng quản trị cũng có sức mạnh để điều tra các trường hợp của những người đă để lại "USA" trong chiến tranh Việt Nam không phải là dự thảo. Họ đă được vinh danh với một "ân xá đầy đủ" (Clark, p.533).


đến nội dung     nach oben


14  Dự thảo nghĩa vụ quân sự ở miền Bắc Việt Nam

Từ 1961 đến 1975 tuổi dự thảo 20. Nhưng Việt Cộng đă làm cho quê hương tuyên truyền do đó cũng được soạn thảo những người từ 16 đến 18 năm. Tuy nhiên, khi "cuộc gọi đến điểm" không làm việc sau đó Việt Cộng đă được cũng được áp dụng mạnh, bạo lực và khủng bố. Miền Bắc Việt Nam máy bay chiến đấu chủ yếu được soạn thảo ở các thôn làng nông thôn (Clark, p.153).

đến nội dung     nach oben
15  Đào ngũ trong "Hoa Kỳ" quân đội

Đă vào năm 1914 tổ chức Thiên chúa giáo ở Anh đă tổ chức một xă hội ruồng bỏ "hữu nghị ḥa giải" (FOR). Xă hội này đă được đại diện cho ḥa b́nh và cải cách xă hội ḥa b́nh. Cùng một tổ chức cũng đă có mặt trong chiến tranh Việt Nam chống lại dự thảo và cho phong trào nhân quyền trong "USA". Các tổ chức hữu nghị ḥa giải "đă được hỗ trợ nhiều tổ chức như vậy, ví dụ như" American Civil Liberties Union "," Chiến tranh Resisters League ", và" Đại hội B́nh đẳng cấp tiến "(Clark, trang 172).

Nhóm phản chiến đă được phát minh ra cũng có người ảo mới:

- RITA được gọi là "Chiến tranh Resister trong Quân đội" tiêu chuẩn
- FRITA được gọi là "bạn bè một cuộc Chiến tranh Resister trong Quân đội"
- FUFA được gọi là "Fed-Up-với-The-Fucking-quân đội": đây là một người lính không bao giờ muốn có bất cứ điều ǵ để làm với bất kỳ quân đội một lần nữa (Clark, p.173).

Mỹ "đầu tiên" đào ngũ chỉ trừng phạt một chút, nhưng những h́nh phạt luôn luôn khó khăn hơn. Số lượng đào ngũ đă tăng lên nhanh chóng với các phong trào phản chiến. Nỗi lo sợ bị giết, cũng là lư do đạo đức là những nguyên nhân gây ra khoảng 93.000 đào ngũ "Mỹ" binh sĩ trong chiến tranh Việt Nam. Gần 22% của đào ngũ đă được đào ngũ sau thời gian b́nh thường của dịch vụ tại Việt Nam. "Hoa Kỳ" Chính phủ ước tính rằng con số đào ngũ là tất cả trong tất cả 550.000, và hầu hết những trường hợp này là một AWOL ngắn ("nghỉ sinh hoạt không" mà không có bất kỳ cuộc tấn công sắp tới của đối phương). 100.000 đào ngũ thực sự đă được giải phóng nghĩa vụ quân sự. Chính thức chỉ có 5.000 trường hợp như vậy đă được báo cáo, và 32.000 trường hợp không được báo cáo đă được đề cập chính thức (Clark, p.141).

"Leave Pháp" là một đào ngũ yên tĩnh trong đêm hay không xuất hiện trong ṿng 24 giờ trước khi cuộc tấn công của kẻ thù. Điều này xảy ra ở trên với tất cả các binh sĩ của quân đội miền Nam Việt Nam hoặc với những người lính làm việc trong "Mỹ" cơ sở. Đào ngũ đă tiết kiệm ḿnh bằng cách sống trong ḷng đất (Clark, p.189).

Vắng mặt không có AWOL Leave là bất hợp pháp không xuất hiện tại các quân mà không có t́nh h́nh của một cuộc tấn công sắp tới của địch. AWOL được khác đào ngũ bởi v́ khi người lính đă không đi sâu vào một dịch vụ quân sự và được giữ một phần của thiết bị của ḿnh hoặc đồng phục của ḿnh sau đó ông đă không được coi như là một kẻ đào ngũ, nhưng đă bị trừng phạt như là một AWOL (Clark, p.4) .

Quân đội miền Nam Việt Nam có tỷ lệ đào ngũ cao nhất. Từ 1961 đến 1975 khoảng 20% ​​được đào ngũ hàng năm. Từ 1965 đến 1972 nó cũng hơn 20%. Các đào ngũ chủ yếu là quay trở lại ngôi làng của họ và thường "dự thảo" của Việt Cộng tương ứng đă bị buộc phải phục vụ trong quân đội Việt Cộng (Clark, p.141).

Tỷ lệ đào ngũ trong quân đội Bắc Việt Nam là rất cao. Chủ yếu là số lượng đào ngũ cao hơn so với số lượng máy bay chiến đấu tự nguyện (Clark, p.153).

Bắc Việt đào ngũ đă được tha thứ ruồng bỏ bởi chương tŕnh Hội Chiểu, c̣n được gọi là "Open Arms Chương tŕnh", và họ đă hoà nhập trong quân đội miền Bắc Việt Nam mà không có bất kỳ sự trừng phạt (Clark, p.141). Những người này ân xá đă được gọi là "Hội Chanks". Sau khi đào ngũ và tái ḥa nhập sự phát triển có thể khác nhau:

- Một số đă trở thành gián điệp cho Mỹ " quân đội và được gọi là "hướng đạo sinh Kit Carson"
- Một số trở lại bỏ rơi quân đội miền Bắc Việt Nam (NVA) / Việt Cộng
- Một số thay đổi ở hai bên nhiều lần (Clark, p.98)
- Nói chung là nguyên tắc cơ bản mà một người trở về nên làm việc trong cùng một khu vực nơi ông đă đến từ ("Lộc Lương 66" Chương tŕnh)
- Và một số cũng đă được làm việc như các đại lư tăng gấp đôi (Clark, p.267).

Trong cuối năm 1973, Chương tŕnh Chiểu Hội đă kết thúc. Năm 1975 đă có một phong trào di tản nhanh và không có thời gian để phá hủy các tài liệu về đào ngũ từ quân Bắc Việt Nam / Việt cộng và gián điệp của quân đội miền Nam Việt Nam, và tất cả các tài liệu rơi vào tay của Việt Cộng, và sau đó trả thù hành động của Việt Cộng bắt đầu (Clark, p.98).

Đó là lư do tại sao những chiếc thuyền tị nạn đến từ Việt Nam mà không có kết thúc, và Thái Lan gần gũi và c̣n nguyên vẹn không ở trên danh sách các quốc gia chấp nhận người tị nạn Việt Nam].

đến nội dung     nach oben
16  Tha tội

Khoan hồng Review Board của Tổng thống Ford
Cơ quan này đă được cài đặt bởi chính phủ của Tổng thống Ford. Nó sẽ cung cấp một h́nh thức ân xá để chống đối vụ quân sự, AWOL như vậy gọi là "vắng mặt không có Leave". Khi các binh sĩ đă được báo cáo chính ḿnh và khi không có bắt giữ, do đó, người lính này có thể hiệu lực "xả không mong muốn" (UD). Khi ông đưa ra một 24 tháng dịch vụ thay thế, v́ vậy ông có thể được thúc đẩy một "xả khoan hồng" (CD). Cựu chiến binh được gọi là hội đồng quản trị như đạo đức giả bởi những vấn đề của các cựu chiến binh Việt Nam, những người thực sự đă chiến đấu và bị bỏ hoang từ cuộc chiến thực sự chưa bao giờ được đề cập đến (Clark, p.184).

Tổ chức Ân xá Chương tŕnh từ Tổng thống Jimmy Carter
Đảng Dân chủ của Tổng thống Jimmy Carter từ Georgia đă được công bố một hành động tha thứ mà không cần điều kiện tiên quyết cho tất cả những người đă chạy trốn khỏi bất kỳ nghĩa vụ quân sự tại Việt Nam:
- Tha thứ là "người Mỹ" đă rời khỏi đất nước
- Tha thứ "người Mỹ" sống trong ḷng đất
- Nhưng đào ngũ không được tha thứ bởi v́ họ chỉ có thể đạt được một quảng cáo từ "Xả không mong muốn" để "Xả Khoan Hồng"
- Và cũng đào ngũ đă bỏ hoang từ cuộc chiến ở Việt Nam hoặc đă bị kết án bởi một ṭa án quân sự không được tha thứ (Clark, p.88).



đến nội dung     nach oben
17  Thiết bị của "Mỹ" binh sĩ: sự ṭ ṃ

"Dust Eater" (một chiếc xe ăn bụi) được gọi là chiếc xe cuối cùng của một đoàn xe quân sự khi chiếc xe này trên thực tế đă được hấp thụ hoà quyện bụi để đối phương không phát hiện các đoàn xe quá nhiều (Clark, p.157).

Vào lúc bắt đầu của các vụ đánh bom "U.S.A." là vụ đánh bom bằng những quả bom đó đến từ chiến tranh Triều Tiên được nêu ra, có đường kính lớn hơn và đồ được gọi là "Fat Bombs". Sau đó, những quả bom mới hơn mỏng hơn (Clark, p.171). Bom với máy ảnh được gọi là "Walleye-Bombs" hoặc "Sunset-Bombs" (Clark, p.161).

Drone bay đă, máy bay không người lái làm gián điệp h́nh ảnh. Họ có biệt danh là "Buffalo Hunter" (Clark, p.155).

Voi hoang dă ở Việt Nam tồn tại. Đây là những con voi nhỏ của Ấn Độ. Quân đội Việt Minh và Quân đội Bắc Việt Nam đă sử dụng những con voi với số lượng nhỏ đối với vật tư cho việc vận chuyển vũ khí hạng nặng. Nhưng nó đă được khó khăn để che giấu con voi, và họ gây ra cũng là bài hát trong rừng và cần quá nhiều thức ăn, và do đó voi đă được xuất viện sau một ít thời gian sử dụng (Clark, p.155).

Cỏ Voi cũng được gọi là "Grass Knife", "Tranh Grass", hoặc "Cỏ Razor". Cỏ này là có nguồn gốc tại Việt Nam, là sắc bén như lưỡi dao cạo và có thể đạt độ cao lên đến 12 feet. Hành động quân sự đă bị cản trở bởi một phần đáng kể cỏ voi này. Nó bị chặn xem, cắt da và đồng phục, và trong mùa khô có phấn hoa bụi cản trở hô hấp. Thương gia Nùng gọi nó là "con dao cỏ" (Clark, p.162).

"Hoa Kỳ" các binh sĩ các ống và vớ quanh cổ của họ để vận chuyển gạo trong suốt cuộc tuần hành dài của họ, được gọi là "gạo cuộn", "gạo ống", "vành đai lúa" hoặc "vớ ống" (Clark, p.162).

Elephant Valley là một thung lũng nhỏ, 25 km phía tây bắc Đà Nẵng. Trong tháng 6 năm 1965 "Mỹ" Marine đă chụp có một đoàn Việt Nam, và không duy nhất của Việt Nam, mà c̣n con voi đă bị giết chết. Kể từ khi sự kiện này biệt danh của thung lũng là "Elephant Valley" (Clark, p.162-163).

"Mỹ" chiến sĩ được gọi là những căn cứ của quân đội miền Bắc Việt Nam (NVA) / Việt Cộng dọc theo đường biên giới Campuchia miền Nam Việt Nam "Fish Hook" (Clark, p.178).

Mỗi làng đều có nó là hệ thống hầm trú ẩn cho ban đêm. Tuy nhiên, nhiên liệu thường không giữ các vụ đánh bom. Một phần các thôn có hệ thống đường hầm dưới ḷng đất kết nối nhau (Clark, p.170-171).

Điện Biên Phủ bếp (đây là một nhà bếp không có khói) được gọi là một thiết bị nhà bếp của Việt Cộng trong ḷng đất, được đặt tên sau khi ít lĩnh vực nhà bếp ngầm được sử dụng đầu tiên trong mương quân Việt Minh. Việt Cộng phiên bản của nhà bếp đă được cài đặt dưới ḷng đất sau đó. Khói bếp lửa dẫn bởi ống nhiều và được pha loăng với không khí từ bên ngoài bước từng bước. Khói pha loăng để lại hệ thống đường hầm có lỗ khác nhau, do đó, số lượng này ít pha loăng khói là thực tế vô h́nh cho các trinh sát trên không. Trong các khu vực được kiểm soát bởi kẻ thù (FWF, "Lực lượng Thế giới Tự do"), các vụ cháy nhà bếp chỉ làm việc vào ban đêm và đă được dập tắt với sự kết thúc của đêm. Các ḷ rất không hiệu quả. Thường th́ khói đă được thổi vào các đường hầm. Nhà bếp trên mặt đất được ưa chuộng hơn khi có thể (Clark, p.144).

Floating Gạo là gạo đă được phát triển độc lập ở vùng đồng bằng từ thủy triều, nhưng mức độ của nước là khác nhau với mỗi triều (Clark, p.181).



đến nội dung     nach oben
18  Y học, rừng nhiệt đới và các bệnh hoa liễu trong chiến tranh Việt Nam

Bệnh viện

"Bệnh viện di tản", c̣n được gọi là "Semimobile", "Evacs" hoặc "nhà máy thịt" bệnh viện với các cấu trúc vĩnh viễn vĩnh viễn hoặc một nửa. "Evac bệnh viện" b́nh thường có khoảng 200 giường, với một loạt các khả năng điều trị chấn thương và bệnh tật. Nhiệm vụ chính cho bệnh viện Evac "là sự ổn định của bệnh nhân để chuyển đến một bệnh viện lớn trong và ngoài Việt Nam. Y tá đă kêu gọi các bệnh viện này "nhà máy sản xuất thịt" (Clark, p.166).

[Bởi v́ trong những "bệnh viện Evac" là điều trị đầu tiên của những người lính bị thương sau khi một cuộc chiến điều trị các vết thương hở hoặc amputating tay chân bị phá hủy.

Danh sách với các loại thuốc thông thường là như vậy gọi là "Drug List" cho cuộc chiến tranh Việt Nam và bao gồm
- Dexamphetamines-mũ
- Methamphetamine-mũ
- Ritalin-Downer ở trẻ em, trên ở người lớn
- Amyl Nitrate (poppers) - được sử dụng cho đau thắt ngực tấn công thượng
- Amytal-thuốc an thần
- Quaaludes-thuốc an thần
- Meprobamate-thuốc an thần
- Chất kích thích tim Epinephrine
- Lidocaine tiêm địa phương và nhiệt đới gây mê
- Lomotil-antidiarrhea thuốc
- APC-quân sự dùng aspirin (aspirin / phenacetin / caffeine) (Clark, p.155).

[Việt Nam lính "U.S.A." cũng là thành viên của các thí nghiệm không được định nghĩa với mũ giày được merchandised sau khi chiến tranh Việt Nam trên toàn thế giới về dân số dân sự].

Điều trị với morphine
Các bác sĩ mặc một thiết bị với thuốc tiêm, và quân đội mặc syrettes cá nhân để tiêm tự trong trường hợp mà họ đă được nghe. Syrettes chứa thường OE-3/4 gam morphine (Clark, p.333).

Bị thương với những vết thương trong dạ dày, trong đầu hoặc ở vú không được phép để mất morphine bởi v́ điều này gây sưng trong đầu. Ngoài ra chức năng cơ thể được slowered từ từ lan rộng từ điểm tiêm trên toàn bộ cơ thể. Sau khi tiêm, chai nhỏ bé đó đă được cố định trên cổ của những người bị thương. Như vậy tất cả mọi người có thể nh́n thấy bao nhiêu morphine người bị thương cũng đă có đă (Clark, p.334).

Morphine hạn chế
Trong những ngày chiến tranh đầu tiên, rất nhiều người lính đă có phần morphine cá nhân trên chúng cho một tiêm tự trong trường hợp bị thương một. Sau 1967, có những hạn chế này morphine cá nhân, cũng v́ lạm dụng ma túy cao hơn và bởi v́ các khả năng vận chuyển nhanh hơn đến bệnh viện. Bác sĩ trên chiến trường có thể có morphine trên chúng được nêu ra, nhưng những người lính b́nh thường ḿnh đă không được phép để có nó cho một mũi tiêm tự nữa. Quân đội duy nhất trong các hoạt động có nguy cơ cao như chuyến du ngoạn dài, quân đội đặc biệt và nghiên cứu và các nhóm quan sát (SOG) được phép có morphine cá nhân (Clark, p.334).

Sốt bệnh
Sốt (sốt FUO) "Sốt of-Không xác-Origin" (FUO sốt, "cơn sốt mà không có định nghĩa của lư"), có thể chỉ ra bệnh sốt rét, kiết lỵ, sốt xuất huyết. Một phần sốt này gây ra bởi những viên thuốc chống sốt rét bản thân, do đó, yêu cầu bồi thường của Mỹ " binh lính. Các bác sĩ bảo vệ những viên thuốc nhưng không bao giờ có thể xác định sốt FUO hoặc nguồn gốc cho nó (Clark, trang 172).

Ngoài ra bệnh sốt xuất huyết đă xuất hiện tại Việt Nam, một bệnh virus lây truyền do muỗi đốt. Các hiệu ứng sưng đau các khớp, cơ bắp cổ, sốt cao, một eczema. Việc điều trị là b́nh tĩnh và cung cấp đồ uống. Thông thường một bệnh sốt xuất huyết không nặng, nhưng một số biến chứng có thể xuất hiện. Các tên khác của bệnh sốt xuất huyết là Breakbone sốt hoặc sốt Dandy (Clark, p.140).

Bệnh sốt rét có các h́nh thức khác nhau như falciparum, Volvax, hoặc "Sốt Blockwater". H́nh thức b́nh thường nhất của bệnh sốt rét ở Việt Nam là Falcparum và Volvax (vivax). Các triệu chứng sốt, tiêu chảy, vàng da, các cuộc tấn công và những cú sốc thần kinh. Khi không có điều trị trong thời gian, kư sinh trùng lây lan trong gan và lá lách. Các cơ quan được mở rộng và đă gây ra trục trặc. Khi không có điều trị đủ các cuộc tấn công sốt và các cuộc tấn công khác có thể lặp lại. Các biến chứng là Blackwater Sốt: Khi một số lượng lớn các tế bào máu đỏ đă bị phá hủy và bài tiết qua nước tiểu, sau đó nước tiểu màu đỏ nâu. Khi một sự phá hủy tế bào đă xảy ra phối hợp với sốt cao và vàng da, nó có thể được truyền máu là cần thiết để ổn định bệnh nhân (Clark, p.311).

Có nhiều thuốc pḥng ngừa bệnh sốt rét: Dapsone đă được thực hiện một thời gian mỗi ngày và được gọi là "hàng ngày mỗi ngày" / "trắng viên thuốc" (Clark, p.134). Chlorocin là một viên thuốc trong một tuần, được gọi là "viên thuốc con ngựa" v́ h́nh dạng lớn của nó, cũng được gọi là "Thứ hai viên thuốc", với các tác dụng phụ như tiêu chảy và da vàng (Clark, p.100). "Hoa Kỳ" các binh sĩ để có những thuốc trong một cách pḥng ngừa. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Mỹ " binh sĩ đă trốn về thuốc và hy vọng cho một căn bệnh sốt rét cho nhanh nhà này tội phạm chiến tranh (Clark, p.311).


Epinephrine là một thuốc chữa bệnh tăng huyết áp và kích thích hoạt động tim, một "chiết xuất từ ​​tuyến thượng thận" (Clark, p.165).

Bệnh hoa liễu (eg)
Các yếu tố lây lan dịch bệnh hoa liễu trong dân số và "Mỹ" người lính mất tích thói quen vệ sinh, mất tích, điều trị y tế, thiếu kiểm tra, không điều trị, và nhân dịp c̣n thiếu cho các cuộc đàm phán trong hệ thống quân sự. Và như vậy, những bệnh đang lây lan nhanh chóng. Một số đơn vị quân đội đă không chính thức cài đặt thổ riêng của họ được giám sát được sử dụng bởi những người lính. Đây là biện pháp của những người lính ḿnh để giảm thiểu sự lây lan của bệnh. Phụ nữ trong ngôi nhà đă được nghiên cứu bởi các bác sĩ quân sự và công việc bị cấm không cho họ b́nh thường khi chúng được t́m thấy bị bệnh. Điều này đă làm việc trong một phần nhỏ của Việt Nam, nhưng vấn đề là quá lớn và không thể được giảm bằng biện pháp này.

Có các loại khác nhau của bệnh hoa liễu tại chính đất nước, và một số người trong số họ có khả năng kháng thuốc penicillin b́nh thường, và do đó các bệnh hoa liễu có tên "giang mai đen". Là một dự án để tránh xa các loại châu Á các bệnh hoa liễu từ "Mỹ" binh lính hoặc cản trở việc trở về nhà đă bị nhiễm "Hoa Kỳ" binh lính. Do đó, tất cả các binh sĩ rời khỏi miền Nam Việt Nam đă bị buộc phải vượt qua các bài kiểm tra y tế. Khi họ không thể vượt qua nó, sau đó họ có một điều trị và đă được lưu giữ như là dài tại Việt Nam khi họ có thể vượt qua các kiểm tra. Thêm vào đó để điều trị giao hợp bệnh hoa liễu với gái mại dâm cũng có thể gây bệnh lao và một loại động vật thối gan (Clark, p.542).

"Black giang mai" là biệt hiệu cho một loại cực kỳ nguy hiểm của bệnh giang mai, khó khăn để xử lư và có khả năng kháng với penicillin. Bệnh giang mai trong ngôn ngữ tiếng Việt được gọi là "Tim-La". Một trong những tin đồn về giang mai đen là một bệnh nhiễm trùng gây nên người đó đă được gửi đến một ḥn đảo nhỏ ở Thái B́nh Dương để ở đó cho đến khi một biện pháp khắc phục đă được t́m thấy hoặc một đă chết ở đó. Những người bị ảnh hưởng đă được đánh giá là "bị bỏ lỡ trong quá tŕnh hoạt động". Một biến thể của nó là một người có thể được coi là "bị giết trong hành động" để các thành viên quen thuộc tiếp theo có thể kế thừa bảo hiểm GI (Clark, p.497).

Bệnh do Trichomonas là một nhiễm kư sinh trùng tấn công đường sinh sản và đường ruột. Kư sinh trùng gây ra các triệu chứng khó chịu như dĩa ngứa, nổi cục nhỏ và bong bóng trên dương vật và các vấn đề chung trong quá tŕnh đi tiểu. Kư sinh trùng trong đường ruột cũng có thể gây ra constrictions và tiêu chảy. Kư sinh trùng được chuyển giao hợp hoặc nước uống bị ô nhiễm (Clark, p.521).

Kiểm soát ngày như ngày cuối cùng: Pussy Cut-off ngày PCOD
As "Ngày Cut-off Pussy" được gọi là ngày cuối cùng của một "Hoa Kỳ" người lính có quan hệ t́nh dục với một cô gái Việt Nam trước khi trở về "USA", và cùng một lúc, người lính đă có đủ thời gian cho việc điều trị các bệnh hoa liễu lâu dài. Ngày thức b́nh thường là 6 đến 8 tuần trước khi trở về nhà. "Hoa Kỳ" quân sự cá nhân đă vượt qua các kiểm tra hoa liễu trước khi trở về. Và tất cả những người bị bệnh của "Mỹ" quân sự được giữ lại cho đến khi họ được chữa lành (Clark, p.394).




đến nội dung     nach oben
19  Tâm lư bệnh tật và thiệt hại lâu dài

"Combat Mệt mỏi" được gọi là "Battle mệt mỏi" hoặc "Kiệt sức hoạt động". Sau khi chiến đấu quá dài hoặc quá chuyên sâu trong chiến trường, tất cả có thể đến với nhau: mệt mỏi, căng thẳng và mệt mỏi về tinh thần. Người lính không "chức năng" nữa và không hoàn thành đơn đặt hàng nữa, và ư thức tinh thần của ḿnh đă được giải quyết từ thực tế. Này khiêu khích đó ông vào t́nh huống vô t́nh gây nguy hiểm hoặc các t́nh huống gây khó khăn cho các đồng chí của ḿnh. Các nguyên nhân gây mệt mỏi chiến đấu là một sự kết hợp của nhiệt, bệnh và kiệt sức. Việc điều trị thường một số ngày c̣n lại và b́nh tĩnh trên một trại căn cứ mà b́nh thường có thể phục hồi các chiến binh để người lính có thể lấy lại tinh thần của ḿnh và cơ thể thống nhất. Trong những trường hợp nặng c̣n dựa cần thiết. Là một pḥng ở chung trong các căn cứ đă được giới thiệu để hoàn thành "Hoa Kỳ" đơn vị. Các đơn vị này có thể vắng mặt tại chiến trường trong nhiều tuần. Thêm vào điều này một thiếu "Mỹ" người lính có thể được gây ra rằng những người lính khác không có được kỳ nghỉ của họ v́ tất yếu (Clark, p.112).

Chống mệt mỏi cũng có thể là h́nh thức của một trầm cảm nặng, solitariness, bất cẩn, cái tôi bị hỏng, và trầm cảm (Clark, p.181).

Trong "Chiến tranh thế giới thứ nhất" hiện tượng này được gọi là "Shell Shock", trong "Chiến tranh thế giới thứ hai" nó được gọi là "Battle mệt mỏi" hoặc "Kiệt sức chiến đấu", trong thời gian chiến tranh Triều Tiên, nó được gọi là "Battle loạn thần kinh" hoặc "Kiệt sức hoạt động" , và trong thời gian chiến tranh Việt Nam, cuối cùng nó đă được gọi là "chống mệt mỏi", "T́nh h́nh phản ứng cấp tính", "chậm stress" hoặc "Chấn thương t́nh huống" (Clark, p.112).

Phản ứng khác với việc bán quá đắt của những người lính trong những trận đánh "Flip Out", "Crack", "Flak Happy", hoặc "chiến đấu điên" (Clark, p.181).

Tại các bệnh viện lớn hơn ở Việt Nam, đă có bác sĩ tâm thần, v́ vậy được gọi là "Combat Bác sĩ tâm thần" chữa những rắc rối tâm lư với những người lính đă đưa ra bởi sự căng thẳng và những trận đánh. Việc điều trị có ba nguyên tắc chính: trực tiếp để được gần gũi - hy vọng bài phát biểu.

Trực tiếp bài phát biểu nên đặt tên các vấn đề nhanh chóng và không bao giờ để nó ra khỏi tầm nh́n
Để được gần gũi: có nghĩa là điều trị bệnh nên bắt đầu càng gần càng tốt, trong khu vực tự thân cuộc chiến
Hy vọng: có nghĩa là tâm lư của người lính nên được thao tác để bệnh nhân sẽ bắt đầu thực hiện nghĩa vụ của nó một lần nữa [và có thể tiếp tục giết (Clark, p.113).

Quân đội có vấn đề đă được gửi trở lại chiến trường càng sớm càng tốt để những vấn đề sẽ không phát triển mạn tính, hoặc các vấn đề đă được bao phủ bởi các triệu chứng khác (Clark, p.113).


Cựu chiến binh Việt Nam và các vấn đề tâm lư của họ

"Veteranitis Combat" là một công thức của tác giả Philip Caputo mô tả một trạng thái của nhiều cựu chiến binh Việt Nam sau khi trở về nhà của họ để "USA".
Những triệu chứng kỳ cựu trong số những người khác luôn luôn
- Khuyết tật tập trung,
- Một nỗi sợ hăi trẻ con của bóng tối
- Một xu hướng bị cạn kiệt nhanh chóng
- Măn cơn ác mộng
- Một không khoan dung liên quan đến tiếng ồn lớn
Thay đổi tâm trạng giữa trầm cảm và các cuộc tấn công tức giận mà không có bất cứ lư do nào (Clark, p.114).

Một số cựu chiến binh Việt Nam đă đau khổ dưới một cảm giác tội lỗi đă sống sót khi bạn bè khác đă bị giết hoặc cắt xén. Các triệu chứng của "tội lỗi Survivor" tương ứng "Tại sao tôi Hội chứng" mất ngủ đến một solitariness xă hội (Clark, p.495).

Không phải tất cả các cựu chiến binh Việt Nam có thể quản lư bạo lực và hủy diệt họ đă nh́n thấy trong các trận đấu, hoặc họ không thể xử lư các sự kiện đau buồn đă qua. Họ không thể quên yếu tố rất lớn và phá hoại, và họ phải chịu đựng những cơn ác mộng, những kỷ niệm, gây mê t́nh cảm, mất ngủ, cảm giác tội lỗi của người sống sót, áp thấp, và sợ hăi. Bác sĩ tâm thần được gọi là hành vi này "hậu chấn thương tâm lư rối loạn stress (PTSD) hoặc một" hội chứng căng thẳng bị tŕ hoăn ". Phức tạp của hạn chế hành vi này gây ra khó khăn trong mối quan hệ cá nhân của những người bị ảnh hưởng. PTSD là một vấn đề ngày nay vẫn c̣n. Nguyên nhân và chi tiết đă được nghiên cứu trong giai đoạn sau (Clark, p.407).

"Hội chứng Việt Nam" được gọi là xu hướng so sánh tất cả các cuộc chiến tranh giải phóng "cộng sản chống lại" USA " với chiến tranh Việt Nam sau khi chiến tranh Việt Nam (trên tất cả khi "USA" đă được hỗ trợ ổn định "chống cộng sản"). So sánh như vậy luôn luôn được thực hiện khi có chỉ dẫn cho "Mỹ" quân sự cung cấp, hoặc khi "Hoa Kỳ" cố vấn hoặc "Hoa Kỳ" quân đội đă tham gia vào các cuộc xung đột. Việt Nam hội chứng đă được sử dụng bởi các nhà phê b́nh quân sự lên án "Mỹ" những nỗ lực quân sự cho các quốc gia Trung và Nam Mỹ "chống lại thương mại ma túy bất hợp pháp (Clark, p.545-546).

[Vâng, trong những năm 1980 tội phạm "U.S.A." phun các lĩnh vực ma túy ở Columbia nhưng đă được phun cũng lĩnh vực rau b́nh thường và được say thu hoạch b́nh thường và cũng có con sông bị ảnh hưởng với cá chết. V́ vậy, hiệu quả trong Columbia thực sự như ở Việt Nam, ít nhất là một chút. Và buôn bán ma túy chính trong "U.S.A." gia đ́nh Bush giao thông qua thuốc trên nền tảng dầu "Mỹ" ở vùng Vịnh Mexico ...].




đến nội dung     nach oben
20  Ma túy và nghiện ma túy trong chiến tranh Việt Nam "USA"

Chung sẵn có và các điều khoản

Các loại thuốc bất hợp pháp tại Việt Nam có thể được mua mà không có vấn đề trong các quán bar, quán massage toàn bộ Sài G̣n và ở các thị trấn miền Nam Việt Nam. Trong doanh trại các khu định cư được xây dựng bên ngoài của Mỹ " cơ sở một số lượng lớn các loại thuốc có thể được mua. Marihuana (cần sa, pot) là loại thuốc chủ yếu là có sẵn, nhưng cũng có băm, thuốc phiện (kẹo cao su), nữ nhân vật chính và một loạt thuốc (mũ / thuốc an thần). Loại thuốc này cũng có thể có sẵn một số kênh của nhân viên quân y. Các loại thuốc như nhân vật nữ chính và băm từ Việt Nam không được pha loăng và có một hiệu ứng mạnh mẽ hơn so với các loại thuốc đă có sẵn trên "của nước Mỹ" đường phố. Trong "U.S.A." hash được pha loăng bởi các lư do tư bản chủ nghĩa. Nhưng ở Việt Nam đă được số lượng nhỏ cực kỳ kích động một chứng nghiện. Việt dân thu lợi nhuận với thương mại ma túy. "Hoa Kỳ" người lính gửi thuốc và marihuana (cần sa), ngay cả nhà cung cấp các thị trường đang phát triển có thu lợi nhuận bản thân. Từ năm 1967 tiêu thụ ma túy trong "Hoa Kỳ" quân đội đă tăng lên đều đặn và năm 1972 có kư tự dịch (Clark, p.273).

Từ tiếng lóng cho "cao về các loại thuốc" đă "vấp ngă", "bị ném đá", "cao", "thuốc cao", "được skulled-out", "để có được một buzz", " có được tách ". Trong trường hợp các loại thuốc như LSD đă được sử dụng có dẫn đến một t́nh trạng là "cao" trong một "chuyến đi đầu" với ảo giác. Đôi khi "chuyến đi" là một câu chuyện cổ tích và được gọi là một "bad trip". Đối với marihuana (cần sa) và băm "bị ném đá" và "tách" là những biểu hiện phổ biến nhất (Clark, p.199).

Có biệt danh cho nữ nhân vật chính hoặc morphine người nghiện injectioning thuốc trực tiếp vào tĩnh mạch, thường là vào cánh tay: "mainliner", "bắn súng", hoặc cũng "speedball". "Mainlining" đưa thuốc trực tiếp vào máu thậm chí làm tăng tác dụng của thuốc. Morphine có thể được tiêm trực tiếp vào các cơ bắp của cơ thể, ví dụ như vào đùi, vào mông, vào cánh tay, do đó vào tay chân có máu lưu thông chậm hơn và tác dụng của thuốc đến chậm hơn. Ngoài các loại thuốc cứng cũng "methedrines" có thể được tiêm cho một giây lát trạng say. Biệt hiệu cho tiêm "Meth" là "Speedball" (Clark, p.311).

Hippies những năm 1960 là những người đến từ các thế hệ conformist chống. Hippies được gọi là cũng "hairhead", "con hoa", "longhairs", và "phản văn". Họ có xu hướng tham gia chống chiến tranh, sau một đường chống độc tài, và làm cho các cuộc biểu t́nh chống lại những giá trị thiết lập. Họ bác bỏ "American Way of Life" được thành lập và họ tin vào sức mạnh của t́nh yêu tự do, trong lực lượng của mái tóc dài và may mắn tinh thần khắc phục xung đột. Lối sống của họ một cách tự do thông thạo đă có cơ sở của họ trong thần bí, và họ có nghĩa rằng thuốc cũng là một câu trả lời cho một sự hài ḥa hoàn toàn. Khi các nhà báo đă thấy chúng chỉ dành cho một số khoảnh khắc được xem những hippies này, sau đó các nhà báo đă có ấn tượng rằng phong trào hippie và phong trào ḥa b́nh sẽ tan chảy. "Flower quyền lực" là một khẩu hiệu hippie v́ một bông hoa là biểu tượng cho b́nh tĩnh và ḥa b́nh. Phong trào hippie và phản văn hóa của họ đă được lan rộng toàn bộ "USA" và được coi là trong các bộ phận rộng của toàn thế giới (Clark, p.230).

Để được "say" là một biểu hiện chủ yếu là với các binh sĩ ở trong t́nh trạng nhiễm độc là "cao" do thuốc (Clark, p.155).

Tổng Discharge từ dịch vụ đă được đưa ra cho những người lính nghiện ma tuư, người đă tự nguyện từ bỏ điều trị và phục hồi chức năng. Nhưng cùng một lúc những người lính đă bị đàn áp bởi v́ thương mại ma túy và lạm dụng thuốc theo quy định của pháp luật dân sự. Việc xả từ nghĩa vụ quân sự đă được quyết định Tướng "Bộ Quốc pḥng" Review Board, hoặc sau này cũng do Ban Ford Đánh giá Khoan Hồng cho đào ngũ. Một xả hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng có thể bởi các lư do y tế hoặc tâm thần (Clark, p.179).



Các loại thuốc khác nhau: là "cao", áp và khao khát ḥa b́nh

Biệt danh cho marihuana: sương, nồi, cỏ, cỏ dại, stash, doanh, Mary Jane, Js (Cần sa, thuốc lá), OJS (thuốc phiện thuốc lá cần sa), hút thuốc lá, thuốc Dobie.

Với rất nhiều biệt danh marihuana (cần sa, cần sa) được chủ yếu là hút thuốc trong đường ống hoặc thuốc lá điếu, và được bán như thuốc lá marihuana khớp, Js hoặc OJS. Trong "U.S.A." marihuana được hút bởi một cơ sở lây lan của người tiêu dùng, và đă có một số thử nghiệm trong vô vọng để hợp pháp hóa này tiêu thụ.

Từ Việt Nam về thuốc phiện là "Thước Phiên" được gọi là do nhầm lẫn bởi các lính như marihuana ("Pien" hoặc "huoc version") khi họ mua nó từ tiếng Việt (Clark, p.313). Các biến thể của marihuana đă có sẵn như là "Campuchia Red" hoặc "Black", "Lào Vàng", "Lao Grass", hoặc "Grass Phật". "Mỹ" biệt hiệu cho marihuana "M. Johnson" (Mike-Juliet), "Dinky Dan Hút thuốc" hoặc "Hút thuốc hạnh phúc" (Clark, p.314).

Một "Gói Đảng" (Kools, Marihuana Thuốc lá điếu, Decks) là một gói 10 marihuana (cần sa) Thuốc lá điếu được quấn vào nhựa và đă được bán bởi người bán hàng Việt Nam, là tốt nhất trong một số các làng và thị trấn chủ yếu là công nghiệp hóa doanh trại bên ngoài "Hoa Kỳ" căn cứ. Các biến thể "Kools" là thuốc lá b́nh thường, nhưng thuốc lá là một hỗn hợp của thuốc lá và marihuana (cần sa). Một số binh đă được cán thuốc lá riêng của họ, nhưng nhiều làng mạc xung quanh "Hoa Kỳ" căn cứ được cung cấp cũng là "Kools" hoặc "Decks" (Clark, p.392).

OJS (thuốc phiện thuốc lá cần sa, 100, Big O) marihuana thuốc lá đă qua một lotion thuốc phiện hay đă được "vẽ" nhân hiệu quả của thuốc phiện hoặc các marihuana. Các khớp với thuốc phiện thêm là một chút lớn hơn so với thuốc lá thường xuyên và được gọi là đôi khi "100" hoặc "Big O" (Clark, p.361).

Thuốc phiện (Phiên, Thước Phiên, Yên) là một trong những loại thuốc bất hợp pháp đă có sẵn cho "Mỹ" quân đội, và nó cũng có sẵn trong "USA". Thuốc phiện ở Việt Nam được gọi là "Thước Phiên". "Yên" là thuốc phiện cho hút thuốc. Phong trào hippie sử dụng thuốc này rộng răi. Tại Việt Nam, thuốc phiện thường hút thuốc trong ống hoặc trong thuốc lá với một hỗn hợp của thuốc lá và thuốc phiện. Quân đội Bắc Việt Nam cũng đă được sử dụng thuốc phiện, đôi khi hút thuốc trước khi một cuộc tấn công tăng cường tinh thần của những người lính gây cảm giác bất khả xâm phạm đến ngọn lửa của đối phương (Clark, p.384).

Tại Việt Nam ở vùng núi xa sống các bộ lạc cũ của các quốc gia tiểu học, ví dụ như bộ tộc của Ta'i và của người Hmong. Những Ta'i là một trong các bộ lạc miền núi sinh sống dọc theo biên giới phía đông của Lào gần Điện Biên Phủ. Những Ta'is đă được biết đến cho thu hoạch thuốc phiện được bán cùng với các bộ tộc miền núi khác như người Hmong. Một số hạn chế của Ta'is cũng tuyển dụng thuê như những người lính Mỹ " Lực lượng đặc biệt USSF làm việc như hàn và do thám làm việc trong các hoạt động chống lại Việt Cộng và chống lại Bắc Việt ở Lào (p.501).

Hash đă bị lạm dụng như là một chất say trong một số "Hoa Kỳ" quân đội tại Việt Nam và cũng đă được lan truyền trong "USA". phong trào hippie đă được sử dụng loại thuốc này rộng răi. Hash đă giành chiến thắng bởi một chiết xuất từ ​​nhựa sử dụng bơm kim tiêm trên marihuana (cần sa) nhà máy và mầm marihuana. H́nh thức cuối cùng là những quả bóng nhỏ màu đen hoặc kẹo cao su dính đă được trộn lẫn và hút thuốc trong ống với thuốc lá (Clark, p.220).

Nữ anh hùng (c̣n gọi là giải thưởng, H lớn) là một derivate morphine narcotizing. Nữ nhân vật chính là rất nghiện. Nó có thể được áp dụng trực tiếp vào tĩnh mạch (Clark, p.226) hoặc có thể được tiêu thụ trong thuốc lá trộn lẫn trong thuốc lá, hoặc nó cũng có thể được ngửi. Nữ anh hùng không có mùi đặc biệt khi nó được hút thuốc, và nó có thể được dễ dàng tiêu thụ mà không có bất kỳ mối nguy hiểm phát hiện. Sau năm 1970, t́nh trạng lạm dụng trong "Mỹ" quân đội đă tăng lên nhanh chóng khi nó cũng có sẵn cho Mỹ " quân đội. Nó được chuyển giao từ các nước như Thái Lan và Lào, và nó đă được bán theo dân số miền Nam Việt Nam. Việt Nam anh hùng đă đặc biệt gây nghiện v́ nó đă được 95% nguyên chất. Trong "U.S.A." nữ anh hùng đường phố đă được pha loăng bởi các lư do lợi nhuận và chỉ 5 đến 10% tinh khiết. Việt Nam "H" là mạnh mẽ rằng một số liên lạc da c̣n có thể khiêu khích eczemas và vết thương. Quân đội ước tính rằng vào năm 1971, 7% dân số của Việt Nam ghi được nghiện nữ anh hùng (Clark, p.227).

Dexamphetamines, cũng được gọi là "mũ", cũng được gọi là "Lực lượng đặc biệt Popcorn", "amphetamine Dextro", "Greenie", hoặc "Bomb xanh". Dexamphetamines đă được sử dụng bởi một số quân đặc biệt và trong một số bữa ăn ngay lập tức khắc phục kiệt sức và thiếu ngủ và giữ cảnh giác và độ bền. Những viên thuốc cũng làm giảm sự thèm ăn để cuộc tuần hành c̣n có thể được thực hiện với đói ít hơn và ăn ít bữa mang trên lưng. "Mũ" nên được sử dụng chỉ với số lượng hạn chế, nhưng một số binh sĩ đặc biệt được chúng trong một thời gian dài. Có những loại khác nhau của "mũ" trong nồng độ khác nhau. "Greenies" hoặc "Bom xanh" là chất kích thích trong viên nang màu xanh lá cây thường có sẵn cho các phi công chiến đấu và "Mỹ" lực lượng đặc biệt, và họ đă trộn vào bữa ăn ngay lập tức (Clark, p.142).

Tốc độ bao gồm trong metamphetamines (hydrochlorides, amphetamines) là ví dụ trong methedrine. Tốc độ là một trong những loại thuốc tiêu thụ chủ yếu của phong trào hippie, được uống ngay từ đầu và đă được y tế quy định để kiểm soát cân nặng. Năm 1967, nhiễm độc nhanh (cao) đă trở nên phổ biến trên toàn thế giới bởi tốc độ tiêm trực tiếp vào việc lưu thông máu. Liều tiêm của amphetamines đă gây ra trong cơ thể của người sử dụng bất ngờ và chuyên sâu "cảm giác" hưng phấn và hiếu động thái quá. Nghiện đến nhanh chóng, và sử dụng lâu dài có thể gây áp thấp nặng và hoang tưởng. Người tốc độ nghiện cũng được gọi là "freaks tốc độ" hay "đầu meth". Tại Việt Nam "Số 10" là tương đương với tốc độ. Amphetamine cũng được sử dụng bởi một số "Hoa Kỳ" Lực lượng đặc biệt (USSF) và quân đội tuần tra trinh sát Long Range (LRRP) tăng cường sức chịu đựng (Clark, p.482).

Quaaludes (methagualones) là một thuốc an thần và đă được quy định bằng miệng. Thuốc này là một derivate "metaqualone" và có tác dụng phụ thôi miên và trầm cảm (Clark, p.418).

STP ("Serenity, Tranquility, ḥa b́nh", trong một từ ngắn: "Dom") là một ảo giác mạnh mẽ và thực nghiệm phát triển bởi Công ty Hoá chất DOW để chữa trị bệnh tâm thần. Trong thập niên 1960 giữa STP được gọi là "Dom" được làm cho nó cách khung cảnh ma túy hippie. Trên đường phố, nó được bán như STP (Clark, p.490).

BTS (benoctole) là một loại thuốc của Pháp đă có sẵn tại Việt Nam mà không cần toa. Benoctole với BTS biệt nó đă được thực hiện dưới h́nh thức của thuốc và gây ra một nhà nước xâm lược với người tiêu dùng. BTS đă được pha trộn với các loại thuốc bất hợp pháp khác và được sử dụng bởi một số binh tại Việt Nam (Clark, p.70).

LSD: lysergic acid (Acid, lysergic Acid Diethylamide 25) là một loại thuốc mở rộng ư thức của thế hệ của những năm 1960. Nó gây ra ảo giác kỳ lạ và kỳ quái với tập dần dần ngày càng tăng của bệnh tâm thần phân liệt. Vào giữa những năm 1960 Timothy Leary là một trong những đề xuất chính của LSD kích động một cuộc cách mạng tinh thần với người tiêu dùng. Trong LSD đầu được sử dụng trong các nghiên cứu lâm sàng. Việc tái sản xuất thuốc chữa bệnh là tương đối đơn giản và nó t́m thấy từng bước đó là cách những lớp xă hội, nơi mọi người đang t́m kiếm một cuộc sống đẹp hơn với một hiệu ứng giác ngộ. Năm 1966 LSD được đặt ra ngoài ṿng pháp luật ở California. Thuốc được sản xuất bất hợp pháp và được bán và một số thuốc cũng đă được đưa đến miền Nam Việt Nam và lây lan ở Mỹ " quân đội (Clark, p.291).

Timothy Leary là một trong những nhà lănh đạo của phong trào ma túy LSD vào giữa những năm 1960. Leary tin trong lực lượng thần bí của thuốc và tin rằng nhiều người trong số các vấn đề toàn thế giới sẽ được giải quyết bằng cách sử dụng LSD. Timothy Leary điệp cho thế giới là: "điều chỉnh, bật và thả ra". Ông đă chiến đấu cho việc sử dụng LSD giải phóng tâm trí và tinh thần:

"Turn-on": LSD sử dụng loại ma túy khác mở tâm nhận được trong bối cảnh đó
"Tune-in": điều chỉnh tâm trạng của bạn vào đó những ǵ đang xảy ra: tinh thần thức dậy
"Drop-out": bỏ cách cũ của cuộc sống (học, làm việc, nghĩa vụ) và làm theo Leary lănh đạo (Clark, p.278).

Allen Ginsberg là một trong những cha đẻ của phong trào hippie. Ginsberg tin rằng LSD là cách để một sự giác ngộ tinh thần và tất cả mọi người trong "America", người trên 14 tuổi nên thử LSD ít nhất một lần. Ginsberg được hỗ trợ t́nh yêu và ḥa b́nh bằng cách sử dụng các loại thuốc để đạt được mục tiêu của ḿnh (Clark, p.201).


đến nội dung     nach oben





^